Translate

Thứ Hai, 31 tháng 3, 2014

NIỀM TIN LÀM ĐƯỢC MỌI SỰ...! (tt)



Trong các sách Tin Mừng, chúng ta thường gặp nỗi sợ hãi, lo lắng của những bậc cha mẹ trước căn bệnh hiểm nghèo của con mình.

Ông trưởng hội đường Giairô khẩn khoản nài xin Đức Giêsu “Con bé nhà tôi gần chết. Xin Thầy đến và đặt tay trên nó” (Mc 5, 23).

Bà dân ngoại gốc Canaan kêu lên: “Xin thương xót tôi, vì con gái của tôi bị quỷ ám trầm trọng lắm” (Mt 15, 22).

Người cha có đứa con bị động kinh cũng nài van Đức Giêsu: “Xin Thầy chạnh lòng thương mà cứu giúp chúng tôi” (Mc 9, 22).

Trong bài Tin Mừng hôm nay viên sĩ quan, có lẽ của vua Hêrôđê, cũng năn nỉ: “Xin Ngài xuống cho, kẻo cháu nó chết mất !” (Ga 4, 49).

Bệnh tật và cái chết đang đe dọa đứa con khiến cha mẹ khổ đau và bối rối. Họ không muốn mất đứa con đã trở nên một phần của đời họ. Họ vội vã đến với Đức Giêsu như đến với một nơi có thể cấp cứu kịp thời. Họ tin vào sự hiện diện của Ngài, vào sự chữa lành mà Ngài đem lại. Lòng tin của viên sĩ quan đã lớn lên từ từ. Ông tin nhờ nghe người ta nói về những gì Đức Giê su đã làm ở vùng Giuđê. Ông gặp Ngài vì tin Ngài có thể chữa đứa con trai đang nguy tử của ông bằng cách đi với ông về nhà ở Caphácnaum (Ga 4, 49). Nhưng sau đó ông tin vào uy quyền của lời Đức Giêsu : “Ông cứ về đi, con ông sống!” nên ông vâng lời đi về nhà một mình (Ga 4,50). Chẳng cần sự hiện diện, chỉ cần lời của Ngài nói từ xa cũng đủ để con ông khỏi bệnh. Lòng tin của ông được vững vàng hơn khi ông kiểm chứng và biết rõ chính vào giờ Ngài nói thì con mình được chữa lành (Ga 4, 53). Bây giờ hẳn ông đã tin trọn vẹn vào chính con người Đức Giêsu. Lòng tin ấy lôi cuốn cả gia đình ông tin theo.

NIỀM TIN LÀM ĐƯỢC MỌI SỰ



Người cha nhận ra là đúng giờ đó Chúa Giêsu bảo ông: “Con ông mạnh rồi”, nên ông và toàn thể gia quyến ông đều tin. (Ga 4,53)

Chia Sẻ:

Bài Phúc Âm hôm nay kể về việc Chúa Giêsu chữa lành người con trai của viên sĩ quan Dân Ngọai, không bằng việc đặt tay, nhưng bằng đức tin của người cha. Viên sĩ quan năn nỉ Chúa Giêsu về nhà chữa trị cho con ông, Chúa Giêsu bảo: “Ông về đi, và con ông sống!” Ông tin tưởng trở về; và đang khi còn trên đường, đầy tớ của ông chạy ra báo tin con ông đã khỏi bệnh vào đúng thời gian mà Chúa Giêsu hứa với ông.

Có một sự khác biệt to lớn giữa người có và không có niềm tin: Người có niềm tin luôn lạc quan hy vọng, ngay cả trong những lúc tăm tối nhất của cuộc đời, như khi phải sống trong đau khổ, bệnh tật, hay phải đối diện với thần chết. Người không có niềm tin sống mà không biết hướng về đâu. Họ không có nghị lực để đương đầu với đau khổ, bệnh tật, và đứng trước cái chết, họ không dễ dàng chấp nhận.


Chủ Nhật, 30 tháng 3, 2014

HÃY TIN ĐỂ ĐƯỢC THẤY...!


Lắng nghe bài Tin Mừng Chúa Nhật Thứ Tư Mùa Chay hôm nay, chúng ta nhận thấy rõ có ba cách nhìn thể hiện:

1. Nơi người mù bẩm sinh được chữa lành 

2. Nơi nhóm Biệt Phái. 

3.  Nơi Chúa Giêsu

Chúa Giêsu nhìn con người cách trong suốt bằng tình yêu thương. Người mù từ khi mới sinh nhìn sự thật bằng đức tin trong khiêm tốn. Nhóm Biệt Phái nhìn sự thật bằng những định kiến, loại trừ trong sự tự mãn kiêu căng.

Sự thật về Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế không thể nhìn bằng đôi mắt thường mà thấy, mà chấp nhận được đâu, nhưng cần phải nhìn bằng con mắt đức tin và chỉ với đức tin mà thôi. Người mù bẩm sinh đã nhận ra Chúa Giê-su, tin vào Chúa Giê-su, vì anh ta đã nhìn thấy nhờ con mắt đức tin, hơn là anh ta nhìn thấy bằng đôi mắt thể lý. Trong đức tin thì không có những thành kiến, những định kiến loại trừ. Đó là điều khác biệt giữa người có đức tin và kẻ không có đức tin. Người có đức tin là người sống rất thật với lòng mình, không giả hình, dối trá, như người mù bẩm sinh khi được thấy, được biết sự thật thì anh đã tin và đã tuyên xưng niềm tin vào Chúa Giêsu: “Thưa Ngài, tôi tin. Rồi anh sấp mình xuống trước mặt Người” không chút so đo tính toán, dù phải trả giá rất đắt như: bị người Biệt Phái trục xuất, cha mẹ và người thân không dám ra mặt ủng hộ, chở che và không dám nhận là thân thiết, bạn bè…

Đời sống đức tin của chúng ta đôi lúc cũng phải trả giá bằng nhiều hy sinh. Trong hành trình đức tin có đôi lúc chúng ta đã qua được bước một là nhận ra được sự thật, sự tốt lành, nhưng đã không tiến xa vì chưa can đảm đi tiếp bước hai này. Để có thể đi tiếp bước hai này, anh mù đã phải nhờ Chúa thêm sức nâng đỡ. Chúng ta cũng thế thôi, hãy tin nhận Chúa là ánh sáng, hãy đón nhận sự hướng dẫn dạy bảo của Chúa, để chúng ta đủ vững tin, được thấy chân lý như người mù bẩm sinh được kể trong Tin Mừng.

Mùa Chay mời gọi ta sống tinh thần biến đổi và sám hối, cùng cầu nguyện cho nhau, xin Chúa ban ơn soi sáng và nghị lực, để mỗi người chúng ta biết thay đổi cách nhìn và tin nhận Chúa Là Anh Sáng, để trong Anh Sáng của Chúa, ta nhận ra những điều mù tối trong tâm hồn ta cần được chữa lành, và để dám can đảm sống và làm chứng cho cho sự thật.
 Hãy tin vào Chúa Giêsu để được thấy!

Thứ Bảy, 29 tháng 3, 2014

HÃY CẦU NGUYỆN ĐÚNG CÁCH


 “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi.” (Lc 18, 13b)

Chia Sẻ:

Chúa Giêsu đưa ra dụ ngôn người Pharisêu và người thu thuế lên Đền Thờ cầu nguyện. Chúa cho tất cả chúng ta đều thấy được phong cách cầu nguyện của mỗi người. Người sấp mình đấm ngực thú tội; được tha thứ để trở thành người công chính. Một người đứng thẳng người kể công và lên án người anh em, không nhận được thêm gì, mà lại phạm thêm tội xúc phạm đến người anh em trước mặt Thiên Chúa.

Người này sống rối, người kia lười đi lễ, người này gia đình tệ..... và thế là họ bị tẩy chay khỏi hội đoàn, tẩy chay khỏi những công việc của giáo xứ....Những hoàn cảnh ấy có khác chi hình ảnh của người thu thuế khi cùng vào đền thờ cầu nguyện chung với ông Pharisêu.

Cầu Nguyện:

Lạy Chúa Giêsu. Chúa muốn chúng con khiêm tốn, nhận ra mình là tội nhân trước mặt Chúa mỗi khi cầu nguyện.

Nhưng, Chúa ơi! Pharisêu thời nay đông như quân Nguyên. Khó hơn Chúa nhiều lắm, trong đó có con nữa! Con xin Chúa giúp con nhìn ra đích thực con người của mình trước Chúa và trước anh em, để con không lên án anh em mình.

HAI THÁI ĐỘ KHI CẦU NGUYỆN



Cầu nguyện là nói chuyện với Thiên Chúa. Con người cần biết Thiên Chúa là ai và những gì Thiên Chúa thích; đồng thời con người cũng cần biết mình là ai và những gì mình ao ước. Vì thế, cần chuẩn bị tâm hồn và có thái độ xứng đáng trước khi cầu nguyện. Để dẫn chứng thái độ thích đáng khi cầu nguyện, Đức Giêsu kể dụ ngôn sau đây với một số người tự hào cho mình là công chính mà khinh chê người khác:

(1) Thái độ của người Pharisêu: Người Pharisêu đứng thẳng, nguyện thầm rằng: "Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con.” Có nhiều điều sai trong cách cầu nguyện này: Hành vi bên ngòai biểu lộ tâm hồn bên trong. Cách đứng thẳng biểu lộ ông cho mình là công chính; và nếu ông đã công chính, ông đâu cần đến Thiên Chúa. Lời nói của ông cũng xác tín điều này, ông so sánh mình với những lọai người tội lỗi, và nhận thấy ông quá tốt lành.

(2) Thái độ của người thu thuế: Còn người thu thuế thì đứng đằng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa rằng: "Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi.” Ông nhận ra Thiên Chúa là ai và ông là ai. Hành động và lời nói của ông chứng tỏ ông là người tội lỗi và đang cần tới lòng thương xót của Thiên Chúa. Ông biết ông không cần phải nói nhiều vì Thiên Chúa đã thông suốt cả.

Hậu quả của cuộc cầu nguyện là mục đích mà cả hai người cùng nhắm tới: Chúa Giêsu tuyên bố: “Tôi nói cho các ông biết: người này, khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi; còn người kia thì không. Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.” Người thu thuế đạt được mục đích, người Biệt phái đã không đạt được đích, lại còn lãnh thêm tội vào mình.


Thứ Sáu, 28 tháng 3, 2014

ĐIỀU RĂN TRỌNG NHẤT


“Thưa Thầy, trong mọi điều răn, điều răn nào đứng đầu?” (Mc 12,28)

Chia Sẻ:

Môsê nhận từ Thiên Chúa Mười Điều Răn, ban bố cho dân tuân giữ để được vào Đất Hứa. Theo dòng lịch sử, dân Chúa được các nhà lãnh đạo tôn giáo đã đặt thành 613 khoản luật. Trong đó có 365 điều cấm làm, và 248 điều phải làm. Gây khó khăn, trở thành gánh nặng trong việc giữ Luật. Nên một kinh sư đã đặt câu hỏi với Chúa Giêsu “Trong mọi điều răn, điều nào đứng đầu?” Chúa Giêsu đã tóm gọn hai giới luật làm một “kính Chúa và yêu người”.

Cầu Nguyện:

Lạy Chúa Giêsu. Dấu hiệu để thiên hạ nhận ra chúng con là môn đệ của Chúa là chúng con thương yêu nhau. Xin Chúa cho mọi thành viên trong gia đình chúng con luôn sống yêu thương nhau và thờ phượng một mình Thiên Chúa.

Thứ Năm, 27 tháng 3, 2014

HÃY CẦU NGUYỆN NHƯ ĐỨC MẸ



Có thể nói  biến cố “Truyền Tin” là minh chứng cho sự “xin vâng” của Đức Mẹ. Để được như vậy, tôi tin rằng Đức Mẹ  là người siêng năng cầu nguyện. Ta có thể nói: đời Ðức Mẹ là đời cầu nguyện liên lỉ. Các việc Ðức Mẹ làm bề ngoài không ngăn trở cho việc cầu nguyện. Lúc thức lúc ngủ, khi vui khi buồn, không lúc nào Ðức Mẹ thôi lòng trí về Thiên Chúa. Qua đó, tôi cũng mời gọi mọi người hãy tập sống như Đức Mẹ trong việc cầu nguyện.
       
 Hồi lên 3 tuổi, Người dâng mình trong đền thờ cho dễ đọc kinh cầu nguyện đêm ngày. Khi Sứ thần truyền tin cũng là lúc Ðức Mẹ đang cầu nguyện. Lúc Chúa Giêsu sống lại đến yên ủi Ðức Mẹ thì cũng là lúc Người đang cầu nguyện. Lại khi Chúa Thánh Thần hiện xuống thì Ðức Mẹ cũng đang cùng các tông đồ cầu nguyện nữa.
        
 Ðức Mẹ đã cầu nguyện sốt sắng trong hang lừa Be-lem, trong đền thờ, trong nhà Nazareth, lúc đứng dưới chân thánh giá. Hiện nay, ở trên trời, Ðức Mẹ cũng không ngừng cầu nguyện cho Giáo Hội và các con cái Người. Ðức Mẹ cầu nguyện rất sốt sắng.

Các thánh dạy: Khi Ðức Mẹ cầu nguyện, mặt Người sáng láng như ông Môsê xưa lúc ở trên núi Sinai mà xuống vậy.

Vì Ðức Mẹ khiêm nhường và cậy trông vững vàng nên Người xin sự gì thì được sự ấy.

Thánh Augustinô nói: “Sự cầu nguyện là chìa khóa mở cửa thiên đàng”. Thánh Ligoriô lại quả quyết: “Ai cầu nguyện, sẽ rỗi linh hồn, ai không cầu nguyện, thì dễ mất linh hồn.” Vậy, ta muốn cứu linh hồn mình thì phải noi gương Ðức Mẹ mà cầu nguyện. Cầu nguyện liên, cầu nguyện sốt sắng và theo ý ngay lành.

          Buổi sáng ta hãy cầu nguyện, vì lời nguyện lúc này như là của nuôi linh hồn mạnh sức chiến đấu cùng ma quỉ và lập công. Buổi tối, trước khi ngủ ta hãy ép mình đọc kinh để cảm tạ Chúa đã ban ơn giúp sức ta làm việc cả ngày và cũng để xin Người gìn giữ hồn xác ta ban đêm nữa.

          Mỗi khi gặp khốn khó như: Lúc đau yếu, khi bị ma quỉ cám dỗ khuấy khất, ta hãy đem lòng lên cùng Chúa và Ðức Mẹ. Cầu xin Người thêm sức cho ta được dùng mọi dịp để lập công.

          Than ôi! Biết bao người giáo hữu ngày đêm bê tha tội lỗi, mê tham của cải, công việc thế tục, lòng trí ra khô khan nguội lạnh không mấy khi nhớ đến Chúa. Ta hãy xét xem đã bao lần ta quên lãng việc đọc kinh nguyện ngắm. Ta hãy thực tình ăn năn và xin Chúa thứ tha.

          Lạy Ðức Mẹ, xin Ðức Mẹ giúp chúng con noi gương bắt chước Mẹ mà siêng năng đọc kinh lần hạt, để đời chúng con được tươi đẹp hơn mà sau này những kinh ấy sẽ kết thành triều thiên cho chúng con trên thiên đàng.


ĐỪNG CHIA RẼ....!

“Nước nào tự chia rẽ thì sẽ điêu tàn” (Lc 11,17).

Chia Sẻ:

Con người ngày nay dường như vô cảm trước khó khăn và đau khổ của người khác. Ma quỷ đã gieo vào thế gian sự chia rẽ và thù hận. Vì thiếu niềm tin vào Chúa, con người đã đánh mất cảm thức về tội lỗi. Khi mất cảm thức về tội lỗi, con người sẵn sàng loại trừ, kết án và tiêu diệt lẫn nhau. Lời Chúa hôm nay nhắc chúng ta rằng “Nước nào tự chia rẽ thì sẽ điêu tàn”. Khi chia rẽ, loại trừ lẫn nhau, con người đánh mất sự bình an và yêu thương.

Cầu Nguyện:

 Lạy Chúa, xin thương đổi mới tâm hồn khô khan và chai lì của chúng con để chúng con biết nhạy cảm trước nỗi đau của đồng loại, biết cảm thông và biết chia sẻ với tha nhân, nhất là những người đau khổ.

HÃY THEO CHÚA...!


“Ai không đi với tôi là chống lại tôi, và ai không cùng tôi thu gom là phân tán.” (Lc 11, 23)

Chia Sẻ:

Thiên Chúa tạo dựng nên con người, và ban cho con người sự sống với một trí óc hiểu biết, luôn khám phá để giúp nhau nhận ra Ngài và gặp được Ngài. Khi phải đối diện với Lời Chúa hay những công việc Chúa làm, con người thường có ba thái độ chính: tích cực vâng lời và làm theo những gì Thiên Chúa răn bảo; hay dửng dưng coi thường “khó quá, ai làm nổi;” hoặc tiêu cực tìm lý do phê bình để khỏi phải làm như “ở Nazareth nào có cái chi hay!”

Chúa Giêsu đến với quyền năng, sức mạnh Thiên Chúa, giúp cho con người thắng được ma quỷ và những cám đỗ của nó. Nên Chúng ta không một ai có thể dửng dung, bàng quan đứng riêng ra một mình, vô trách nhiệm, không quan tâm. Cuối đoạn Tin Mừng này Chúa Giêsu xác quyết: Không theo Chúa là đã phạm tội chống lại Chúa; Không cộng tác với Chúa tức là phạm tội phá hoại công việc của Người.

Cầu Nguyện:

Lạy Chúa Giêsu. Xin cho mọi thành viên trong gia đình chúng con luôn học biết để đi theo Chúa và tích cực tham gia trong mọi công tác Tông đồ Giáo dân.

Thứ Tư, 26 tháng 3, 2014

HÃY ĐI TRONG ĐƯỜNG LỐI CỦA CHÚA



Đời sống càng văn minh thì con người lại càng lỏng lẻo trong việc giữ các giới luật của Chúa. Nhiều người hôm nay không còn đi lễ ngày Chúa nhật, hay chẳng đi xưng tội nữa. Nhiều ngôi thánh đường ở Âu Châu phải đóng cửa vì số người đi dự lễ ngày càng ít đi. Thế nhưng, mỗi khi có biến cố gì xảy ra thì nhà thờ lại thấy đông người. Chẳng hạn như sau vụ khủng bố ngày 11/9 ở Mỹ, hay nền kinh tế tuột dốc, nhà thờ tự dưng đông hẳn người lên. Được vài tháng sau thì nhà thờ lại vắng như xưa.

Nhìn vào quá khứ trong Cựu ước khi dân Israen chối bỏ Chúa, thì họ đã bị quân thù đánh bại, nhưng khi họ trở về với Thiên Chúa, thì Thiên Chúa bảo vệ họ và giúp họ chiến thắng. Lời Chúa nói hôm nay: "Các ngươi hãy đi trong mọi đường lối mà Ta truyền dạy cho các ngươi, để các ngươi được hạnh phúc". Tôi không thể ở trong đường tội lỗi và muốn Chúa phải cho tôi được hạnh phúc, gặp sự lành. Tôi không thể sống thờ ơ, từ bỏ Chúa để rồi khi gặp chuyện hiểm nguy tôi mới chạy đến kêu xin cùng Chúa và mong Chúa nhận lời ngay. Tôi cần trung thành với Chúa trong mọi lúc, khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan và luôn biết ơn, tin tưởng Chúa trong mọi hoàn cảnh.

Lạy Chúa, xin tỏ cho con biết đường lối của Chúa và cho con trái tim vâng phục bước đi trong đường lối của Chúa. Xin Mẹ Maria giúp con trong Mùa Chay này nhận ra những con đường của con không phải là của Chúa và giúp con trở về con đường ngay, nẻo chính của Chúa. Amen.

LUẬT CỦA CHÚA



Người Do-thái tưởng Chúa Giêsu đến bãi bỏ Lề Luật: Các cuộc tranh luận của Chúa Giêsu và người Do-thái thường xoay quanh các vấn đề của Lề Luật: thanh tẩy, giữ ngày Sabbath, ăn chay, cầu nguyện, và làm các việc lành phúc đức. Nhiều người trong họ nghĩ Chúa Giêsu đến để bãi bỏ Lề Luật và dạy dân chúng khinh thường Lề Luật. Tuy nhiên, trong tất cả trường hợp, Chúa Giêsu muốn giúp họ sửa sai những quan niệm và áp dụng của họ về Lề Luật:

- Người phân biệt giữa Lề Luật của Thiên Chúa và của con người: “Các ông khéo lấy Lề Luật của các ông để vô hiệu hóa các giới răn của Thiên Chúa.” Ví dụ: Giới luật thứ bốn trong Thập Giới truyền phải thảo hiếu cha mẹ bằng cách phải phụng dưỡng các ngài. Các kinh-sư và biệt-phái dạy: “Hãy nói với cha với mẹ rằng: những gì con có để giúp cha mẹ đều lễ phẩm đã dâng cho Chúa" rồi, và các ông không để cho người ấy làm gì để giúp cha mẹ nữa” (Mc 7:11-12). Con người có bổn phận phải giữ các Luật của Thiên Chúa; họ có thể từ chối không giữ luật của con người nếu những luật này ngược lại với những gì Thiên Chúa dạy.

- Người phân biệt giữa tinh thần của Lề Luật và cách áp dụng Lề Luật: “Lề Luật làm ra vì con người chứ không phải con người cho Lề Luật” (Mc 2:27). Ví dụ: Ngày Sabat làm ra vì con người; vì thế, chữa bệnh trong ngày Sbbat là điều được phép làm. Chính các kinh sư và biệt phái cũng làm như thế, khi họ kéo các con vật của họ rơi vào hố trong ngày đó; thế mà họ lại khó chịu khi thấy Chúa Giêsu chữa bệnh trong ngày Sabbat (Mt 12:1-12).

- Để chứng minh sự hiểu biết sai của họ về Luật thanh tẩy, Người phân biệt cái nhơ bẩn bên ngòai và sự ô uế trong tâm hồn: Bất cứ cái gì từ bên ngoài vào trong con người, thì không thể làm cho con người ra ô uế, bởi vì nó không đi vào lòng, nhưng vào bụng người ta, rồi bị thải ra ngoài” Như vậy là Người tuyên bố mọi thức ăn đều thanh sạch. “Cái gì từ trong con người xuất ra, cái đó mới làm cho con người ra ô uế. Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng. Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế” (Mc 7:18-23).

Để sửa sai quan niệm của họ về Ngài, Chúa Giêsu tuyên bố rõ ràng: “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Moses hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn. Vì, Thầy bảo thật anh em, trước khi trời đất qua đi, thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi, cho đến khi mọi sự được hoàn thành.” (Mt 5, 17-18) Chúa Giêsu làm gì để kiện tòan Lề Luật? Chương 5 của Matthew chứa đầy những giáo lý toàn hảo của Chúa Giêsu trên Lề Luật; ví dụ:

 Khi Ngài dạy phải thanh sạch ngay từ trong tâm hồn: "Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Chớ ngoại tình. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi” (Mt 5:27-28).

 Khi Ngài dạy các môn đệ phải yêu thương kẻ thù: “Vì nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình, thì anh em nào có công chi? Ngay cả những người thu thuế cũng chẳng làm như thế sao? Nếu anh em chỉ chào hỏi anh em mình thôi, thì anh em có làm gì lạ thường đâu? Ngay cả người ngoại cũng chẳng làm như thế sao? Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5:46-48).

 Khi Ngài dạy bán hết gia tài và phân phát cho người nghèo khó: "Nếu anh muốn nên hoàn thiện, thì hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi" (Mt 19:21).

            Khi Ngài cầu xin cho các môn đệ được hiệp nhất nên một như Cha Ngài và Ngài là một: “Con ở trong họ và Cha ở trong con, để họ được hoàn toàn nên một; như vậy, thế gian sẽ nhận biết là chính Cha đã sai con và đã yêu thương họ như đã yêu thương con” (Jn 17:23).

TỰ DO THÂT SỰ


“Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Môsê hoặc lời các ngôn sứ.  Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn.” (Mt 5,17)

Chia Sẻ:

Đức Giêsu mời chúng ta nghiêm túc giữ Luật Môsê đã được Ngài kiện toàn. Luật ấy là lời giáo huấn của Ngài mà các môn đệ đã nghe. Con người thời nay thích tự do nên dị ứng với luật lệ. Nhưng giữ luật không phải là chuyện của nô lệ hay trẻ con. Khi tránh được thói nệ luật, cứng nhắc bám vào mặt chữ, ta có thể giữ luật như cách biểu lộ hồn nhiên tình yêu với Chúa và tha nhân. Trung tín với những đòi hỏi nhỏ bé của các điều răn chỉ vì yêu, và “dạy người ta mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28, 20), đó là con đường dẫn đến hạnh phúc mai sau cho người môn đệ.

Kiện toàn là đưa Luật Môsê đến chỗ thành tựu, hoàn hảo, bởi lẽ nó có những hạn chế, bất toàn, do Thiên Chúa phải nương theo trình độ lúc đó của Dân Ngài. Kiện toàn là giải thích lại Luật Môsê theo đúng ý Thiên Chúa. Chẳng ai biết Ý Thiên Chúa Cha bằng Con của Ngài là Đức Giêsu Kitô. Hơn ai hết, Đức Giêsu có quyền nói lên ý nghĩa mới mẻ của Lề Luật.

Về việc giữ luật, ta cũng có thể liên tưởng tới một lời dạy khác của Chúa Giêsu “Ai trung tín trong việc nhỏ thì sẽ trung tín trong việc lớn” (Lc 16,10).

Cầu Nguyện:

Lạy Chúa Giêsu, ai trong chúng con cũng thích tự do, nhưng mặt khác chúng con thấy mình dễ bị nô lệ. Có nhiều xiềng xích do chính chúng con tạo ra.

Xin giúp chúng con được tự do thực sự: tự do trước những đòi hỏi của thân xác, tự do trước đam mê của trái tim, tự do trước những thành kiến của trí tuệ.

Xin giải phóng chúng con khỏi cái tôi ích kỷ, để dễ nhận ra những đòi hỏi tế nhị của Chúa, để nhạy cảm trước nhu cầu bé nhỏ của anh em.

Thứ Ba, 25 tháng 3, 2014

MẦU NHIỆM QUA LỄ TRUYỀN TIN



Lễ Truyền Tin là  “tin vui”  không chỉ riêng cho Đức Maria mà còn cho cả nhân loại. Nhờ sự kiện truyền tin và nhờ lời “xin vâng” của Đức Maria mà chúng ta có Đấng Em-ma-nu-en, là vị Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta.

Chỉ trong vòng nửa năm mà tin vui nhân đôi: Mới trước đó là tin vui cho vợ chồng ông Da-ca-ri-a và bà Ê-li-da-bét (còn gọi là I-sa-ve) với tin thụ thai ngôn sứ Gioan Tẩy Giả, và nay là tin vui cho Đức Maria với tin thụ thai Đấng Cứu Thế. Tin vui lớn dần, tin vui sau lớn hơn tin vui trước. Quả thật, niềm vui ấy lan tỏa mau chóng, bao phủ khắp nơi, đầy ắp lòng người. Niềm vui như vỡ òa!

Với “tin vui”  thứ nhất, chúng ta có “Bài Ca Chúc Tụng” (Benedictus) của ông Da-ca-ri-a (Lc 1:68-79). Với “tin vui”  thứ nhì (nhưng lớn hơn), chúng ta có “Bài Ca Ngợi Khen” (Magnificat) của Đức Maria.

Chẳng có bút sách hoặc văn lực nào đủ sức nói về Đức Maria – một Nữ Tỳ Vĩ Đại, một Kiệt Tác của Thiên Chúa, một loại kỳ hoa dị thảo đặc biệt nhất. Trí óc phàm nhân không thể nào hiểu nổi chuyện thụ thai mà còn đồng trinh, có so sánh như “ánh nắng chiếu qua tấm kiếng” thì cũng chỉ để hiểu được phần nào thôi. Và càng khó hiểu hơn về một thụ tạo mà lại trở thành Mẹ của Thiên Chúa, điều mà người chị họ Ê-li-da-bét đã xác nhận và reo vui: “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?” (Lc 1:43).

Ngôn sứ I-sai-a đã từng cảnh báo: “Nghe đây, hỡi nhà Đa-vít! Các ngươi làm phiền thiên hạ chưa đủ sao, mà còn muốn làm phiền cả Thiên Chúa của tôi nữa? Vì vậy, chính Chúa Thượng sẽ ban cho các ngươi một dấu: Này đây người thiếu nữ mang thai, sinh hạ con trai, và đặt tên là Em-ma-nu-en” (Is 7:13-14).

Chắc hẳn đây cũng là lời cảnh báo với chúng ta, vì chúng ta vẫn có “máu” làm phiền Thiên Chúa, khoái sự lạ, tính tò mò lớn hơn niềm tin. Đơn giản như khi đi đường, có gì “khác thường” là người ta xúm lại xem rồi bàn tán rôm rả. Cũng vậy, người ta mong được thấy “sự lạ” ở nơi này hoặc nơi kia, rỉ tai nhau rồi ùn ùn kéo nhau đi. Xong rồi thôi, chính những người đó chẳng có gì thay đổi tích cực về tâm linh. Vậy thì cũng chỉ là vô ích!

Thế nhưng “dấu lạ” nhãn tiền hằng ngày lại không mấy ai thực sự để ý, hoặc chúng ta cố ý làm ngơ. Thật ư? Đúng vậy. Đó là “sự lạ” về không khí để chúng ta hít thở từng giây để có thể sống, và đặc biệt là phép lạ THÁNH THỂ hằng ngày tái diễn trên bàn thờ, chính Chúa Giêsu vẫn hiện diện sống động thực sự ở giữa chúng ta, cụ thể là nơi Nhà Tạm.

Lạy Thiên Chúa toàn năng, xin Ngài cứ thực hiện những gì Ngài thấy tốt cho cuộc sống của chúng con trên trần gian này, và xin giúp chúng con luôn mau mắn xin vâng tuyệt đối. Xin Đức Mẹ hướng dẫn và nâng đỡ để chúng con vững bước theo con đường Mẹ đã đi qua.  Amen

LỄ TRUYỀN TIN



Lễ Truyền Tin được kính vào ngày 25 tháng 3, tức là 9 tháng trước lễ Giáng Sinh, là khoảng thời gian Đức Mẹ cưu mang Chúa Giêsu.

Lễ này trước kia được mừng kính ở Giáo hội Đông phương với tước hiệu lễ “Ngôi Lời nhập thể” từ khoảng năm 550. Giáo hội Rôma mãi đến thế kỷ thứ 7 mới chấp nhận thánh lễ này.

Ngày nay, Lịch Phụng vụ Rôma lấy lại danh xưng “Lễ Truyền Tin” vì có lý do chính đáng, nhưng trước sau vẫn là lễ chung của Đức Kitô và Đức Trinh Nữ : Lễ của Ngôi Lời làm “con Đức Trinh nữ” và lễ Đức trinh nữ là “Mẹ Thiên Chúa”.

Ngay từ đời đời, Thiên Chúa đã có ý định tái lập tất cả những gì đã hư mất bởi tội lỗi, và phác họa một công trình cứu chuộc mà Chúa Kitô là trung tâm, với sự cộng tác cần thiết của một người nữ thánh thiện. Cả hai sẽ là Adong và Evà mới thay thế cho Adong và Evà cũ đã phạm tội.

Người nữ ấy không ai khác hơn là Mẹ Maria, Đấng đầy ân phúc, trổi vượt hơn mọi phụ nữ. Mẹ đã được tiên báo qua lời hứa tại vườn Địa đàng xưa :”Ta sẽ đặt mối thù giữa mi và người nữ. Người sẽ đạp nát đầu mi, còn mi sẽ rình cắn gót chân Người”(St 3,15). Mẹ đã được chọn làm Evà mới thực hiện lời hứa xưa kia tại vườn Địa Đàng.

Thứ Hai, 24 tháng 3, 2014

ĐỪNG ĐỂ TÂM HỒN VẮNG CHÚA

Sự trống vắng Thiên Chúa trong tâm hồn không nhất thiết chỉ là tôi không dự lễ, không rước lễ hay không xưng tội. Thiên Chúa là tình yêu, vì thế khi tôi không yêu, tâm hồn cưu mang sự giận dữ, chứa đầy ghen ghét, thù hận.... là tâm hồn tôi đang trống vắng Thiên Chúa. Một sự trống vắng Thiên Chúa khác nữa là khi tôi có một chủ nhà khác trong tâm hồn như tiền bạc, sắc đẹp, danh vọng, địa vị, kiêu căng... Thiên Chúa đã nói rõ, các con không thể làm tôi hai chủ được, hoặc mến chủ này, hoặc ghét chủ kia. Vậy, làm sao tôi có thể biết ai đang làm chủ tâm hồn tôi? Có một vài dấu hiệu để tôi nhận ra điều này. Khi tư tưởng, ý nghĩ, ước muốn của tôi thường xuyên hướng về điều gì, thì thường đó là ông chủ của tôi. Thí dụ như đang dự lễ mà đầu óc tôi cứ nghĩ đến chuyện sẽ nấu gì ăn tối nay thì việc ăn uống đang làm chủ tâm hồn tôi... Hay tôi ngồi xem hết trận banh này tới trận banh kia để khi đến giờ ngủ vì mệt mỏi quá nên tôi chỉ làm dấu qua loa, rồi lăn đùng ra ngủ thì thể thao, bóng đá đang làm chủ tâm hồn tôi... Nếu tôi đọc kinh cho thật nhiều, miệng nói yêu Chúa mà lại không thực hành, thì Chúa chỉ ở trên môi miệng mà không có ở trong tâm hồn.

Lạy Chúa, đã nhiều lần Chúa có con, mà con thì không có Chúa bởi những đam mê, thú vui xác thịt đã làm chủ đời sống của con. Đã nhiều lần căn nhà tâm hồn con trống vắng không có Chúa, bởi chính con quên mất Chúa, bởi con để những sự thuộc về thế gian ngập đầy tâm hồn. Xin Chúa từ nay đến và làm chủ 

CHỐNG VỚI CÁM DỖ


Mùa Chay mời gọi mọi người ăn năn sám hối để đến gần với Chúa hơn, điều đó không có nghĩa là chúng ta có thể hoàn toàn thoát được cám dỗ. Cám dỗ: không ai thoát được. Bao lâu còn sống ở đời, ta còn phải chịu đau khổ và cám dỗ. Vì thế thánh Job nói: “Đời sống con người trên mặt đất chỉ là một cám dỗ liên lỉ”.

Do đó, mỗi người chúng ta phải đề phòng cám dỗ, phải tỉnh táo cầu nguyện để cho quỉ – hằng tỉnh thức và luôn luôn “chạy rảo khắp nơi tìm mồi sát hại” – sẽ không làm gì được ta.

Làm gì có ai hoàn toàn và thánh thiện đến nỗi không phải cám dỗ bao giờ! Đã thế ta cũng không tài nào thoát được. Nhưng cám dỗ – dầu nặng nề gay gắt mấy – thường lại rất lợi vì nó giúp ta tự khiêm, nó luyện lọc và cho ta những bài học quí giá!

Hết mọi thánh nhân đã phải qua những thử thách, những cám dỗ lớn lao và nhờ đó các ngài đã được lợi rất nhiều. Còn những ai không chịu nổi cơn thử thách đã phải loại bỏ và bị tiêu diệt.

Không một dòng tu nào thánh thiện, không một nơi nào khuất tịch mấy mà thử thách và cám dỗ không tới được! Không ai còn sống mà thoát hẳn được cám dỗ, vì bẩm sinh con người đã có dục vọng, mà dục vọng chính là mầm mống của cám dỗ.

Cám dỗ hoặc đau khổ này chưa qua hẳn, cám dỗ hoặc đau khổ khác đã dồn dập tới. Lúc nào ta cũng có một cái gì phải chịu đựng vì ta đã mất những sảng khoái của tình trạng diễm phúc sơ khai

Nhiều người tìm thoát cám dỗ, nhưng lại gặp ngay cám dỗ nặng hơn. Không phải cứ trốn mà thắng nổi cám dỗ đâu. Nhưng phải nhẫn nại và khiêm tốn thực mới khuất phục được thù địch của ta. Nếu chỉ tránh những dịp bên ngoài mà không nhổ cho tuyệt căn: Bạn sẽ không tấn tới được mấy. Cám dỗ sẽ tiến đến dồn dập và bạn sẽ thấy khổ tâm hơn.

Cứ từ từ chống trả cho nhẫn nhục và bền gan – với ơn Chúa giúp – bạn sẽ thắng cám dỗ dễ hơn là xua nó một cách tức tối hằn học. Bị cám dỗ, bạn hãy năng đi bàn hỏi. Cũng đừng gắt gỏng với những người bị cám dỗ: hãy yên ủi họ như bạn muốn được người yên ủi.

Nguyên do mọi cám dỗ xấu là tại tâm hồn nông nổi và ít tín nhiệm vào Chúa. Như một con thuyền không lái bị sóng nước lôi cuốn, con người nhát gan và không giữ điều quyết định luôn luôn bị cám dỗ lay chuyển. Phải cẩn phòng luôn nhất là khi cám dỗ mới đến. Đừng mở cửa để nó đột nhập linh hồn. Hãy chặn đánh ngay khi nó vừa ló mặt như thế rất dễ thắng nó.

Lạy Chúa, khi bị cám dỗ, con cảm thấy rõ, nguyên sức con chỉ có thể phạm tội mất lòng Chúa, vì lòng con luôn chiều về điều ác. Nhưng con lại biết: Chúa có thể giữ con khỏi những xô lấn tàn tệ của tình dục và, chính Chúa cũng muốn giúp con nữa. Vậy không tin ở con, con chỉ tin trót ở Chúa, con sẽ thưa Chúa: Lạy Chúa, con đang đứng trên bờ vực sâu, con giơ tay lên cùng Chúa và trông cậy Chúa sẽ không để con chìm mất.

THIÊN CHÚA ----LOÀI NGƯỜI


Không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình. (Lc 4,24)

Điều này vẫn còn xảy ra hôm nay, vì có những người nghiên cứu cuộc đời Đức Giê-su ; nhưng nghiên cứu một hồi thì mất đức tin ! Tại sao lại như vậy ? Đó là vì họ giản lược căn tính thần linh của Đức Giê-su vào bình diện của những điều họ đã biết, nghĩa là bình diện kiến thức, mà phần lớn chỉ dựa trên suy đoán hay bị chi phối nặng nề bởi thái độ nghi hoặc. Trong khi đó, căn tính thần linh của Ngài chỉ có thể là đối tượng của lòng tin, là hoa trái của gặp gỡ đích thân, của đón nhận, của hành trình đi theo và trở nên một, đến từ lòng khao khát Thiên Chúa, nhận ra, cảm nếm dấu vết Thiên Chúa nơi ngôi vị lạ lùng của Ngài trong tương quan với sáng tạo và lịch sử, với cuộc đời cụ thể của mỗi người chúng ta.

Thiên Chúa sáng tạo con người để thông truyền sự sống, ơn huệ sự sống được diễn tả và cụ thể hóa bởi ơn lương thực, được ban cho chúng ta mỗi ngày (St 1, 29 ; Tv 136, 25). Và nơi Đức Ki-tô, Thiên Chúa trao ban chính mình làm lương thực, để cho con người được sống và sống dồi dào : “Này là mình Thầy, anh em hãy cầm lấy mà ăn”.

Tuy nhiên, lịch sử cứu độ, lịch sử của loài người, lịch sử của mỗi người chúng ta đầy những thăng trầm thuộc phận người, đầy tội lỗi vì bị chi phối nặng nề bởi “sự dữ” và sự chết.

Vậy Thiên Chúa còn trung tín với ý muốn thông truyền sự sống cho con người không? Vẫn còn mãi đấy các bạn à, nơi Đức Ki-tô, nhất là trong mầu nhiệm Vượt Qua của Người, Thiên Chúa mang lấy “mọi bệnh hoạn tật nguyền” của loài người chúng ta, của từng người chúng ta, để nói với chúng ta rằng: Thiên Chúa yêu thương con người, yêu thương từng người chúng ta đến cùng, và tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa mạnh hơn “sự dữ” và sự chết.

SUY NIỆM MÙA CHAY...!


Trong Mùa Chay Giáo Hội cho chúng ta nghe về kết cục khá bất ngờ và đau đớn của Đức Giêsu khi Ngài trở về với hội đường của làng Nadarét thân quen.

Chúa dạy dân bài học lịch sử: trình thuật hôm nay tiếp tục tường thuật cuộc trở về Nadarét, quê hương của của Chúa Giêsu. Sau khi đọc Sách tiên tri Isaia, khán giả đồng hương ngồi xuống, và Chúa bắt đầu rao giảng. Thay vì là một cuộc vinh quy bái tổ, họ bắt đầu khinh thường Chúa. Ngài mời họ nhìn lại lịch sử để đừng tái diễn những điều không nên làm. Người nói tiếp: “Tôi bảo thật các ông: không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình.”  (Lc 4,24). Chúa Giêsu dẫn chứng lời Ngài nói bằng hai ví dụ:

(1) Tiên tri Elia cho hũ bột của bà góa tại Sarepta, Sidon, không cạn: "Thật vậy, tôi nói cho các ông hay: vào thời ông Elia, khi trời hạn hán suốt ba năm sáu tháng, cả nước phải đói kém dữ dội, thiếu gì bà goá ở trong nước Israel; thế mà ông không được sai đến giúp một bà nào cả, nhưng chỉ được sai đến giúp bà goá thành Sarepta miền Sidon.”

(2) Tiên tri Elisa chữa Naaman, tướng Syria, khỏi bệnh cùi: “Cũng vậy, vào thời ngôn sứ Elisa, thiếu gì người phong hủi ở trong nước Israel, nhưng không người nào được sạch, mà chỉ có ông Naaman, người xứ Syria thôi."

Lịch sử lại tái diễn: “Nghe vậy, mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành - thành này được xây trên núi. Họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực. Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi.”(Lc 4, 29-30)

Như thế, Lời Chúa hôm nay muốn nói rằng Chúa không thiên vị ai, Ngài ban ơn cho tất cả mọi người, cho dù người ngoại nhưng nếu tin vào Chúa thì Ngài cũng ban ơn. Còn kẻ có đạo nhưng không tin thật thì không đáng lãnh nhận ơn Ngài.

Đối với những người đồng hương ở Nadarét, Chúa Giêsu ưu ái nhưng không thiên vị. Ưu ái và thiên vị khác nhau. Vì ưu ái họ nên Chúa chọn Nadarét làm nơi Ngài công bố chương trình cứu rỗi của Ngài, vì ưu ái họ nên Chúa muốn ban cho họ ơn lớn nhất là đức tin. Nhưng Chúa không thiên vị: nếu họ không tin thì Ngài không làm phép lạ cho họ.

Có lẽ mãi đến thời nay nhiều người vẫn còn nghĩ cách hẹp hòi là Thiên Chúa chỉ thương những người “có đạo”, còn “kẻ ngoại” thì bị bỏ ra rìa. Thực ra Thiên Chúa là Thiên Chúa của tất cả mọi người. Ngày nay vẫn có những người như bà góa xứ Sarepta và tướng quân Naaman được Chúa thương đến. Còn những người có đạo cũng có thể giống như dân làng Nadarét, bị “Chúa tiến qua giữa họ mà bỏ đi”.

Chủ Nhật, 23 tháng 3, 2014

THIÊN CHÚA KHÁT

Chúa Giê-su, Con Thiên Chúa xuống thế làm người đến chia sẻ thân phận làm người với chúng ta. Ngài sinh ra trong nghèo khó, người cảm thông với kẻ bệnh tật, chia sẻ bánh-cá với đoàn lũ dân chúng bơ vơ đến nghe Ngài giảng dạy. Chính người đã đồng hóa mình nên người nghèo, người yếu đau tù đày: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.” (Mt 25,40) Làm người thực cho nên Ngài cảm nhận được cái đói sau khi chay tịnh 40 đêm ngày trong hoang địa. Ngài cảm nhận được sự mệt nhọc, đói khát trong hành trình sứ mạng cao cả của mình. Và cũng chính từ những nhu cầu rất bình thường như bao người khác Ngài đã đến ngồi bên bờ giếng tại Sy-Kar nghỉ mệt và xin nước uống trong lúc chờ các môn đệ vào thành mua thức ăn.


Nước mà Ngài xin người phụ nữ không biết Ngài có uống? Còn lương thực các môn đệ đem về Ngài không dùng. Ngài đã dùng một thứ lương thực khác đó là “thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Ngài” (Ga 4,34). Ý muốn của Chúa Cha là Cứu độ con người qua cái chết trên thập giá và phục sinh của Ngài. “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên! Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất!” (Lc 12,49-50)

Phép rửa là cuộc thương khó của Chúa Giê-su đã hoàn tất nhưng Ngài vẫn nói: “Ta khát!” trước cái chết trên thập giá. (Ga 19,28b) Cơn khát của Ngài vẫn còn đó triền miên khi con người vẫn chạy theo những khát vọng khác để mong tìm ra giải pháp và đấng cứu độ cho mình. Cơn khát đó càng cháy bỏng hơn khi con người không muốn đón tiếp Ngài như người phụ nữ Samaria lúc mới đầu gặp gỡ. Con người đang muốn loại trừ sự can thiệp và hiện diện của Thiên Chúa trong đời sống của mình. Sự loại trừ này khởi từ ý thức sâu xa trong tâm hồn đến những hình ảnh tôn giáo bị tháo xuống khỏi nơi công cộng.

Làm người ai cũng có những khát khao, ước vọng của mình. Người phụ nữ Samaria là điển hình cho nỗi khát vọng của mỗi chúng ta. Chỉ khi gặp được Đức Ki-tô, Đấng Cứu Độ trần gian chúng ta mới được giải khát. “Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa” (Ga,14).

Trong mùa chay này chúng ta hãy điều chỉnh những khát vọng của mình. Hãy ra công làm việc vì của ăn thường tồn, (x Ga 6,26-27) và biết tiết chế những nhu cầu của bản thân để có thể cho anh em bé mọn dù chỉ là bát nước lã. (Mt 10, 42)

Chúa Giê-su vẫn tiếp tục bước đi trong hành trình tìm kiếm và gặp gỡ con người. Ngài vẫn đang đi bước trước mở lời xin nước từ nơi mỗi chúng ta. Ước mong cho mỗi chúng ta cũng được may mắn như người phụ nữ và người dân Samaria là gặp được Đấng Cứu độ trần gian.

DỌN ĐƯỜNG CHO CHÚA



Mùa Chay mời gọi chúng ta sám hối ăn năn để dọn đường cho Chúa 

“Có tiếng kêu trong hoang địa: Hãy dọn đường cho Chúa, sửa lối cho thẳng để Ngài đi. Mọi thung lũng phải lấp cho đầy, mọi núi đồi phải bạt xuống cho thấp, khúc quanh co phải uốn cho ngay, đường lồi lõm phải san cho bằng”. (Lc 3,4-5)

Tiếng kêu trong hoang địa đòi hỏi phải chuẩn bị sẵn một con đường, con đường trong nơi hoang dã. Tiếng kêu này đến với riêng tôi. Tôi phải lắng nghe lời Thầy dạy bảo, mở con đường đi vào tâm hồn tôi bằng ân sủng của Chúa, qua sa mạc hoang vu của bản chất tôi.

Ta để ý đến bốn mệnh lệnh:

- Mọi thung lũng phải lấp cho đầy. Những ý nghĩ nông cạn về Chúa phải bỏ đi. Những nghi ngờ và tuyệt vọng phải đẩy lùi. Những việc bon chen và các thú vui xác thịt phải dẹp hết. Ngang qua những thung lũng sâu này, một con đường ân sủng sẽ được xây đắp lên.

- Mọi núi đồi phải bạt xuống cho thấp. Kiêu ngạo, tự mãn, khoe khoang phải được hạ xuống để mở đường cho Vua các vua. Mối tương giao với đấng thiêng liêng không bao giờ ban cho kẻ độc ác, tự cao tự đại. Chúa tôn trọng kẻ khiêm nhường và thăm viếng những ai có tâm hồn ăn năn thống hối. Còn kẻ tự tôn Chúa sẽ hạ xuống. Hãy cầu xin Thánh Linh sửa ngay lại tâm hồn bạn theo chiều hướng này.

- Mọi khúc quanh co phải uốn cho ngay. Tâm hồn nào nhấp nhô như sóng biển phải được sửa lại cho ngay. Phải vững niềm tin nơi Chúa và sự thanh khiết của Ngài. Những người nửa tin nửa ngờ rất xa lạ đối với chân lý của Chúa. Tâm hồn chúng ta phải chân thành trong bất cứ hoàn cảnh nào, và lúc nào cũng phải như đứng trước mặt Chúa...

- Ðường lối lồi lõm phải san cho bằng. Những vật cản tội ác cần phải dẹp đi. Những gai góc nổi loạn cần phải được nhổ tận rễ. Có như thế, khi Ðấng Thánh viếng thăm mới không vướng vào những hòn đá hay mắc phải những gai nhọn. Ngài sẽ vào bằng con đường sạch sẻ, dễ đi, và sẽ vào nhà ta, tâm hồn ta. Hân hạnh thay, Chúa vào tâm hồn ta, khi tất cả những chướng ngại đều bị dẹp bỏ hết.

NƯỚC HẰNG SỐNG....! (tt)



Đức Giê-su trả lời: “Ai uống nước này, sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời.” (Ga 5, 13-14)

Chia Sẻ:

Đức Giêsu gặp người phụ nữ bên bờ giếng nước. Người phụ nữ nhìn Đức Giêsu bằng ánh mắt khinh miệt.

Dưới mắt chị, đó chỉ là một gã Do Thái bẩn thỉu. Còn tệ hơn thế, anh chàng Do Thái này nghèo mạt rệp, đang đói khát, mệt mỏi rã rời, chỉ chờ chực xin ăn, xin uống.

Chị hợm mình, vì chị có tất cả. Chị có giếng nước của tổ tiên. Đối với người Samari, có nước là có tất cả. Ở giữa vùng sa mạc mênh mông, nơi nào có nước, nơi ấy có sự sống. Vì nhờ có nước, cây cỏ mọc lên xanh tươi, gia súc có lương thực, con người mới sống được. Ai chiếm được nguồn nước, người ấy lập tức trở nên giàu có.

Nhưng Đức Giêsu đã phá tan sự an thân giả tạo của chị. Người cho chị thấy giếng nước của chị chỉ là phù du, vì giếng nước ấy không cho nước hằng sống. Người cho chị thấy hạnh phúc gia đình mà chị đang có chỉ là hư ảo, vì hạnh phúc ấy xây dựng trên chỉ một mối duyên hờ. Người cho chị thấy niềm tin của chị vào đền thờ chỉ là ngụy tín, vì đền thờ chỉ là gạch đá vô hồn, không có Chúa ngự bên trong.

Lời Chúa như lưỡi gươm sắc bén chẻ đôi đời chị. Mảnh đời cũ để lại bên giếng, kho tàng của trần gian. Mảnh đời mới ngụp lặn trong dòng suối đức tin, kho tàng thiên quốc.

Lời Chúa là ngọn đèn soi đường. Nên chị bước đi những bước lẹ làng, vững chắc hướng về sự sống mới.

Lời Chúa là chiếc cầu đưa chị vào đời sống thần linh. Chị bỏ lại bên này cầu chiếc bình múc nước, vì bên kia cầu chị đã có mạch nước trường sinh. Chị bỏ lại bên này cầu mối duyên hờ, vì bên kia cầu chị đã găp được tình yêu đích thực. Chị bỏ lại bên này cầu ngôi đền thờ trống rỗng, vì bên kia cầu chị gặp được Đấng chị phải tôn thờ trong tinh thần và chân lý. Chị như cánh đại bàng bay bổng trên trời cao với những đường bay rất đẹp.

Người phụ nữ là cánh đại bàng. Chị đã trút bỏ mọi gánh nặng kéo trì đôi cánh, nên chị bay vút lên cao. Còn ta vẫn chỉ là loài gà. Ta vẫn còn bên này cầu. Những gì người phụ nữ bỏ lại, ta ôm lấy mang về. Ta vẫn còn ôm ấp những giấc mơ trần tục. Của cải, dục vọng vẫn là những tảng đá ngăn chặn dòng nước đức tin. Những ngụy tín, những ảo tưởng, những thứ đạo đức hình thức, giả hiệu vẫn còn che chắn không cho ta nhận biết chính mình. Và vì thế ta không bao giờ gặp được Chúa.

Cầu Nguyện:

Xin lời Chúa như lưỡi gươm tách bạch trắng đen, để ta dứt lìa tội lỗi, thoát khỏi thói an tâm giả tạo, thói đạo đức hình thức. Xin lời Chúa tháo đi những tảng đá trì trệ, để dòng suối tin yêu khai thông, để nước mắt sám hối tuôn trào rửa sạch hồn ta. Và để tình yêu bừng nở đem cho ta hạnh phúc chân thật.

Thứ Bảy, 22 tháng 3, 2014

NƯỚC HẰNG SỐNG



Nước là nguồn sống. Mọi loài thụ tạo đều cần có nước để bảo tồn sự sống. Thiên Chúa ban dư tràn các nguồn nước từ trên cao mây trời, từ sông suối biển hồ và từ các nguồn mạch dưới đất. Nơi nào có nước, nơi đó có hiện hữu của sự sống và sự phú túc.

Bài Tin Mừng hôm nay trình thuật cho chúng ta biết, ngoài các nguồn nước theo cách hiểu thông thường, còn có một nguồn nước khác nữa, đó là “Nước Hằng Sống”.  Trong cuộc đàm thoại với người đàn bà, Chúa Giêsu đã mạc khải cho bà về nguồn ân sủng, đó là nguồn nước trường sinh sẽ không bao giờ cạn: Chúa Giêsu trả lời: “Ai uống nước giếng này sẽ còn khát, nhưng ai uống nước Ta sẽ cho thì không bao giờ còn khát nữa, vì nước Ta cho ai thì nơi người ấy sẽ trở thành mạch nước vọt đến sự sống đời đời” (Ga 4, 13). Từ câu chuyện đời thường, Chúa Giêsu đã khéo dẫn bà đi vào đời sống nội tâm và nhìn biết được chính mình. Biết phận mình, bà ra giếng giữa lúc trưa nắng để tránh gặp những người hàng xóm quen thuộc. Bà đã gặp được Chúa Giêsu đang ngồi nghỉ cạnh giếng. Chúa Giêsu không ngần ngại khởi đầu câu chuyện xin người đàn bà cho nước uống. Thời đó, chúng ta biết giữa người Do-thái và người Samaria phân biệt không liên đới và không dùng chung các dụng cụ tại giếng. Ngay cả các tông đồ cũng ngạc nhiên về cuộc đàm thoại giữa Chúa Giêsu và người đàn bà tội lỗi nơi công cộng. Nhờ cơ hội này, Chúa đã đi vào sâu thẳm trong tâm hồn khao khát sự thật của bà. Chúa đã giải thoát cho bà.

Chúa Giêsu đã mở lòng người đàn bà Samaria. Bà đã đón nhận nguồn nước sự sống trường sinh. Bà đã tìm ra sự thật của việc tôn thờ Thiên Chúa trong thần trí. Bà đã thấy và đã tin vào Chúa Giêsu. Bà trở thành nhân chứng của nước trời mang tin vui cho những người chung quanh. Dù bị xem là người dân ngoại, bà đã có lòng tin trở lại. Thánh Phaolô trong thơ gởi cho dân thành Rôma đã công bố: Đấng cho chúng ta nhờ đức tin mà tiến đến ân sủng, đứng vững ở đó và được hiển vinh trong niềm hy vọng vinh quang của con cái Chúa (Rm 5, 2).Đức tin dẫn đến ân sủng. Tin vào Chúa Giêsu là cửa ngõ dẫn chúng ta đến ơn cứu độ. Niềm tin là sự phó thác hoàn toàn vào sự quan phòng của Thiên Chúa. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta rằng tiên vàn hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Người và mọi sự sẽ được ban cho.

Lạy Chúa, xin cho nguồn nước hằng sống tuôn đổ vào tâm hồn, để chúng con được hưởng nếm tình yêu dịu ngọt của Chúa. Xin Chúa thanh tẩy tâm hồn chúng con khỏi vết nhơ tội lỗi và ban cho chúng con một trái tim biết yêu thương chân thành.

CHÚA VẪN CHỜ TA...!


Dụ ngôn “người con hoang đàng” trong Tin Mừng Thánh Luca là một dụ ngôn hết sức ý nghĩa. Dụ ngôn nói lên sự chờ đợi của người cha, mong đợi người con tội lỗi ăn năn trở về. Đó cũng chính là tâm tình của Thiên Chúa với mỗi người trong chúng ta, cách riêng là các Kitô hữu.

Chờ đợi là dấu hiệu của lòng yêu mến. Người không có lòng yêu mến thì không tha thiết gì, cũng chẳng mong đợi chi hết, chỉ khi nào chúng ta yêu mến ai, hoặc yêu thích điều gì, lúc đó chúng ta mới cảm thấy mong đợi. Tâm niệm đời sống người tín hữu chính là lòng mến và tình yêu Chúa Kitô. Vì tình yêu, Chúa Giêsu đã không ngừng đến gõ cửa tâm hồn mỗi người qua trung gian tha nhân, những người nghèo khổ cần được thương yêu, tiếp nhận và giúp đỡ. Cũng vì tình yêu, Chúa Giêsu đến gõ cửa tâm hồn mỗi người qua những khó khăn thử thách của cuộc sống hằng ngày, ngay cả qua những yếu đuối, thất bại và tội lỗi.

Hy vọng của người tín hữu không phải là giấc mơ hảo huyền, nhưng được đặt trên nền tảng vững chắc là Ðức Giêsu. Ngài muốn đổi mới tâm hồn chúng ta, nhưng Ngài cũng không thể làm gì được nếu chúng ta không muốn, nếu chúng ta không biết kiên nhẫn đợi chờ và không biết mở cửa đón nhận Ngài với tất cả tấm lòng yêu mến.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đến trần gian để rao truyền Tin Mừng cứu độ cho mọi người. Xin Chúa hãy kiên cường niềm hy vọng và sưởi ấm lửa yêu mến Chúa trong tâm hồn chúng con.

Xin đừng để con thờ ơ dửng dưng trước lời mời gọi của Chúa, đừng để con dại dột cố chấp trước những dấu hiệu của tình yêu Chúa.

Xin giúp con biết luôn sẵn sàng mau mắn trong công việc thiện hảo để chúng con hân hoan đón nhận ơn thánh của ngày cứu độ, ngày Chúa đến trong giờ sau hết của đời sống chúng con. Amen

HÃY TRỞ VỀ.....!

“Anh ta còn ở đằng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để” (Lc 15, 20)

Chia Sẻ:

Thiên Chúa là Đấng rất nhân từ. Lòng nhân từ của Ngài thể hiện qua sự kiên nhẫn với lỗi lầm của con người. Cho dù con người có sa đi ngã lại trong lầm lỗi, Ngài vẫn thứ tha. Lòng nhân từ của Ngài thể hiện qua lòng bao dung, cho dù con người có đốn mạt đến đâu, Ngài cũng sẵn lòng giang rộng tay tha thứ nếu biết ăn năn trở về.

Tình thương đó được Chúa Giê-su phác hoạ qua dụ ngôn Người cha nhân từ. Một người cha không hề oán trách khi con đòi chia gia tài. Không hề oán trách khi con phung phí hết tài sản. Không hề trách mắng khi con thành tâm trở về. Tình thương của Cha còn thể hiện qua tấm lòng luôn khao khát chờ mong con trở về. Người cha ngày ngày ngóng con trở về. Và chỉ cần nhìn thấy con từ đằng xa, Cha đã chạy ra ôm con vào lòng.

Cầu Nguyện:

Xin cho chúng ta luôn tin tưởng vào lòng Chúa xót thương. Luôn can đảm trở về sau những lần vấp ngã, và luôn tín thác vào Chúa luôn mãi. Amen

THIÊN CHÚA – NGƯỜI CHA NHÂN LÀNH (tt)


Khi ấy, các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giêsu để nghe Người giảng. Những người Pharisêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng.” Đức Giêsu mới kể cho họ dụ ngôn này:

“Một người kia có hai con trai……….(Lc 15, 1-3, 11-32)

Chia Sẻ:

Dụ ngôn người cha nhân hậu là một dụ ngôn nổi tiếng, qua đó Đức Giêsu cho thấy tại sao Ngài đón tiếp và ăn uống với tội nhân. Đơn giản chỉ vì ngài giống Thiên Chúa là người Cha nhân hậu.

Người cha nhân hậu là người tôn trọng tự do của đứa con thứ, người đã chia một phần ba gia sản cho nó ngay khi ông còn sống. Ông đã không tìm con, như người ta tìm chiên lạc hay tìm đồng bạc bị mất. Ông tin và hy vọng sớm muộn nó sẽ về, nên ông kiên nhẫn chờ. Vì chờ, nên ông là người đầu tiên trông thấy con trở về tiều tụy. Không cầm lòng được vì thương, ông chạy ra, ôm lấy cổ con mà hôn. Người con của ông đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy. Khi con thứ sám hối, ông đã trả lại cho cậu tất cả vinh dự của người con. Việc duy nhất phải làm ngay là mở tiệc ăn mừng. Khi con cả giận dỗi, không chịu vào nhà chung vui với cha và em, một lần nữa người cha lại đi ra và năn nỉ . Ông chấp nhận ở thế yếu vì ông không muốn mất một đứa con nào. Ông không thể yên tâm ở trong nhà khi còn một đứa con ngoài cổng.

Hoán cải bao giờ cũng khó. Con thứ phải can đảm lắm mới dám trở về nhà cha. Làm sao lường được phản ứng của cha, anh, của gia nhân, hàng xóm? Làm sao dám về nhà trong tình trạng thân tàn ma dại? Nhưng con cả cũng không dễ vào nhà chút nào, vì vào nhà là phải bắt tay thằng em đã phung phí hết của cải, vào nhà là phải chấp nhận sự thiên vị khó hiểu của người cha.

CẢ HAI NGƯỜI CON ĐỀU CẦN HOÁN CẢI.

Cầu Nguyện:

Lạy Chúa, Chúa như người Cha nhân hậu. Chúa hằng giang tay chờ đón chúng con trở về với Chúa. Chúa không hỏi tội, Chúa chẳng chấp nhất tội chúng con. Vì “nếu Chúa chấp tội thì nào ai rỗi được”. Xin giúp chúng con trong mùa chay thánh này biết ăn năn trở về thật lòng, biết sám hối những lỗi phạm của mình, và biết canh tân đổi mới cuộc sống.

THIÊN CHÚA – NGƯỜI CHA NHÂN LÀNH

Chúa Giêsu đã từng nói: “Trên Thiên Đàng, mọi người sẽ vui mừng vì một người tội lỗi biết ăn năn sám hối, hơn một người công chính không cần phải sám hối ăn năn”, có lẽ vì thế mà Người đã kể cho chúng ta nghe rất nhiều dụ ngôn nhằm minh chứng cho điều đó.

 Trong chương 15 của Tin Mừng theo thánh Luca, Đức Giê-su kể một lúc tới 3 dụ ngôn (Lc 15, 1-32), để giải thích tại sao Ngài không chỉ tiếp đón những người tội lỗi, mà con ăn uống với họ nữa, nghĩa là Người còn kết bạn với họ. Nhưng trên Thập Giá, Người còn đi xa hơn, khi để mình bị bắt và bị lên án như là tội nhân và chịu chết chung với các tội nhân.

Ba dụ ngôn có một thứ tự đặc biệt khiến chúng ta phải chú ý : 100 con chiên trong đó có một con bị mất ; 10 đồng quan, có một đồng bị mất, và 2 người con, một người bị hư mất. Như thế, xét trên bình diện số học, sự mất mát càng lúc càng lớn : một trên một trăm, một trên mười và một trên hai ; hơn nữa, xét về bản chất của điều bị mất, ban đầu là con vật, sau đó là đồng tiền, và trường hợp thứ ba là một người con, mà người con thì vô giá.

Và ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm này, giá trị mất mát cảng lớn, thì niềm vui sẽ càng lớn, khi tìm lại được. Chính vì thế, người cha, khi mở rộng vòng tay đón nhận người con hư mất trở về, đã mở tiệc ăn mừng ; trong khi với trường hợp con chiên và đồng tiền tìm lại được, người ta chỉ chia sẻ tin vui thôi, với bạn bè và hàng xóm.


Cha muốn trao ban hết, nhưng những người con của cha lại tính toán : chia chắc, tính công, so đo…. Cha vẫn còn đau khổ chờ đợi, vì người con lớn vẫn chưa trả lời. Và có lẽ, lời nói mà Cha chờ đợi nơi anh là : « tất cả những gì của con là của Cha ». Còn về người con thứ, Cha vẫn sẽ kiên nhẫn đồng hành với hành trình « tái sinh », chắc chắn là lâu dài và không dễ dàng của người con út. Và với chúng ta cũng vậy, Cha vẫn đợi, vẫn kiên nhẫn và bao dung đợi từng người chúng ta.

Dụ ngôn nói về tương quan của từng người chúng ta với Chúa, và tương quan của chúng ta với nhau, tương quan nào cũng bị tổn thương, sứt mẻ, cần được hàn gán, phục hồi, hòa giải. Đó chính là sứ mạng của Đức Giê-su, Ngài lấy lời, hành động và chính thân mình để hòa giải từng người chúng ta với Chúa Cha, và từng người chúng ta với nhau.

Thứ Sáu, 21 tháng 3, 2014

CHÚA VẪN ĐANG HIỆN DIỆN…!


Chúa Giêsu lên trời không có nghĩa là Ngài chấm dứt sự hiện diện với chúng ta hay là vĩnh viễn xa lìa chúng ta.

Chúa Giêsu không bao giờ để chúng ta mồ côi đâu! Khi Chúa Giêsu lên trời, Ngài chỉ thay đổi cách hiện diện của Ngài mà thôi: Ngài không còn ở lại với chúng ta bằng chính thân xác Phục Sinh vinh hiển của Ngài, nhưng Ngài vẫn ở lại qua cách thế hiện diện mới với chúng ta mọi ngày cho đến tận thế.

Sau khi Ngài về trời Chúa Giêsu vẫn luôn hiện diện với chúng ta qua nhiều phương thế. Ngài vẫn,

- Hiện diện trong Bí tích Thánh Thể: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy” (Ga 6,56).

- Hiện diện trong Giáo Hội: “Ai nghe các con là nghe Ta” (Lc 10,16).

- Hiện diện trong Cộng đoàn: “Ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ” (Mt 18,20).

- Hiện diện trong những hành vi bác ái: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,``40).

- Hiện diện trong những người nghèo khổ, cô đơn, thất thế, bé mọn, …

- Chúa Giêsu đang ngủ trong thuyền đời của chúng ta. Khi thuyền đời chúng ta chòng chành nguy hiểm, sắp bị gió bão đánh chìm, chúng ta hãy cùng nhau cầu nguyện để đánh thức Chúa Giêsu dậy. Ngài sẽ ngăm đe gió bão và ra lệnh cho sóng biển – sóng buồn phiền, sóng đau khổ, sóng bất công, sóng thất vọng - phải im để chúng ta, gia đình chúng ta, cộng đoàn chúng ta, giáo xứ, giáo phận và Giáo Hội chúng ta được bình an.

KHÁT CHÚA…!



Trong đời sống siêu nhiên, có những phương tiện làm cho mầm non Nước Trời lớn lên, như là cầu nguyện, ăn chay và bố thí. Bằng cách mời gọi chúng ta thực thi những điều đó, Mùa Chay làm lớn lên trong chúng ta đức cậy trông, nghĩa là niềm xác tín rằng Thiên Chúa sẽ cho chúng ta mai sau được về cùng Chúa là người Cha đích thật, cũng như sẽ không còn “khát Chúa” nữa.

Ngày xưa Chúa Giêsu kêu khát mà không ai lưu ý. Ngày nay Ngài cũng vẫn kêu khát mà vẫn bị làm ngơ!

Ở Phi châu có những trẻ em đang chờ chết từng giờ vì đói, vì khát, và còn biết bao người nghèo khổ khác trên thế giới, thậm chí họ ở ngay bên chúng ta: Người ăn xin, người già nua neo đơn, trẻ mồ côi, người sa cơ lỡ vận, người kém may mắn, người hàm oan, người bệnh hoạn, người tật nguyền, người vô gia cư, người nghèo khó phải chạy ăn từng bữa,… Thế nhưng có thể chúng ta vẫn dửng dưng như xem thời sự trên ti-vi, qua báo chí, nghe qua radio, tất cả đều qua đi như nghe một điệu nhạc buồn rồi thôi, không chút động lòng thương cảm, không hề cầu nguyện cho họ, không hề chia sẻ với họ. Cùng lắm cũng chỉ nói: “Tội nghiệp!”. Chỉ thế thôi. Chính những con người khốn khổ đó là tiếng vọng thảm thương cấp bách của Chúa Giêsu từ trên Thập Giá giữa nắng chiều gay gắt trên đỉnh đồi Can-vê ngày nào! Chúng ta có cảm thấy mình mắc lỗi đức ái?

Chúa không đòi buộc chúng ta làm đại sự, làm việc phi thường, mà Ngài chỉ bảo chúng ta làm những điều “nho nhỏ” thôi. Thật vậy, dù chúng ta chỉ vì động lòng thương xót mà cho người khác “một chén nước lã” để giải khát thì Ngài cũng “chấm công” cho chúng ta.

Vậy, trước khi vứt bỏ các thức ăn còn sót lại trong chén của bạn, xin bạn hãy nghĩ tới những người đang lâm cảnh đói khát, thèm những thứ dư thừa của người khác mà không có. Cuộc đời có những điều nghịch-lý-thuận: Cái mà với người này là dư thừa, là đồ bỏ, là rác rưởi, nhưng với người khác rất có thể là vật cần thiết nhất cho sự sống còn!

Ước gì, trong suốt cuộc đời, nhất là cơ hội ngàn vàng là Mùa Chay này, mỗi chúng ta đều thực sự KHÁT CHÚA như tác giả Thánh Vịnh thân thưa: “Lạy Thiên Chúa, Ngài là Chúa con thờ, ngay từ rạng đông con tìm kiếm Chúa. Linh hồn con đã khát khao Ngài, tấm thân này mòn mỏi đợi trông, như mảnh đất hoang khô cằn, không giọt nước” (Tv 63:2).

HÃY SINH HOA LỢI CHO CHÚA...! (tt)


Gần đến mùa hái nho, ông sai đầy tớ đến gặp các tá điền để thu hoa lợi. Bọn tá điền bắt các đầy tớ ông: chúng đánh người này, giết người kia, ném đá người nọ. Ông lại sai một số đầy tớ khác đông hơn trước: nhưng bọn tá điền cũng xử với họ y như vậy. Sau cùng, ông sai chính con trai mình đến gặp chúng, vì nghĩ rằng: “Chúng sẽ nể con ta.”  Nhưng bọn tá điền vừa thấy người con, thì bảo nhau: “Đứa thừa tự đây rồi! Nào ta giết quách nó đi, và đoạt lấy gia tài nó!” Thế là chúng bắt lấy cậu, quăng ra bên ngoài vườn nho, và giết đi. (Mt 21, 34-39)

Chia Sẻ:

Trong Mùa Chay, Giáo Hội cho chúng ta nghe dụ ngôn những tá điền. Những tá điền này được chủ nhà cho canh tác vườn nho của mình, để đến mùa hái nho họ giao lại cho ông hoa lợi. Đây là một vườn nho được ông chủ quan tâm săn sóc. Ông đã trồng, đã rào giậu, khoét bồn đạp nho và xây tháp canh. Tiếc thay, khi ông chủ sai các đầy tớ đến để thu hoa lợi các tá điền chẳng những không nộp, mà còn hành hạ họ và giết đi (Mt 21, 35). Nhóm đầy tớ thứ hai cũng chịu chung số phận (Mt 21, 36). Nhưng ông chủ vẫn không thất vọng trước sự độc ác của các tá điền. Sau cùng, ông đã sai chính con trai mình đến với họ. Đứa con thừa tự cũng chẳng được nể vì, bị lôi ra khỏi vườn nho và giết đi.

Khi kể dụ ngôn này Đức Giêsu muốn nói mình chính là người con ấy, người Con của ông chủ vườn nho là Thiên Chúa. Ngài tiên báo về cái chết sắp đến của mình bởi tay những tá điền sát nhân là các nhà lãnh đạo Do thái giáo đương thời. Cái chết của Đức Giêsu nằm trong chuỗi những cái chết của các ngôn sứ là các đầy tớ đã được Thiên Chúa sai đến với dân Ítraen trong dòng lịch sử. Tuy nhiên, cái chết ấy đặc biệt cao quý vì là cái chết của chính Người Con. Hơn thế nữa, cái chết ấy không phải là một dấu chấm hết. Nó là cánh cửa mở ra một trang mới của lịch sử, không phải chỉ là lịch sử của dân tộc Ítraen, mà còn của cả nhân loại.

Cầu Nguyện:

Lạy Chúa Giêsu. Giáo Hội là của Chúa. Xin cho mọi thành viên trong gia đình chúng con luôn biết hăng say cộng tác trong công việc tông đồ để mở mang Nước Chúa.

HÃY SINH HOA LỢI CHO CHÚA...!


Gần đến mùa hái nho, ông sai đầy tớ đến gặp các tá điền để thu hoa lợi. Bọn tá điền bắt các đầy tớ ông: chúng đánh người này, giết người kia, ném đá người nọ. Ông lại sai một số đầy tớ khác đông hơn trước: nhưng bọn tá điền cũng xử với họ y như vậy. Sau cùng, ông sai chính con trai mình đến gặp chúng, vì nghĩ rằng: “Chúng sẽ nể con ta.”  Nhưng bọn tá điền vừa thấy người con, thì bảo nhau: “Đứa thừa tự đây rồi! Nào ta giết quách nó đi, và đoạt lấy gia tài nó!”  Thế là chúng bắt lấy cậu, quăng ra bên ngoài vườn nho, và giết đi. (Mt 21, 34-39)

Chia Sẻ:

Thiên Chúa đã yêu thương tuyển chọn và chăm sóc dân Người. Nhưng những con người bất tín, điển hình là các nhà lãnh đạo Do thái đã đưa dẫn vào con đường bội nghĩa. Người đã sai các ngôn sứ đến và các ngài đã bị đối xử tàn tệ. Cuối cùng Thiên Chúa đã sai chính Con Một của Người đến. Ngài đã bị họ xỉ nhục, đánh đòn và đóng đinh trên Thập Giá. Nhưng chính nhờ Ngài, ơn cứu độ đã được thực hiện cho muôn người. Qua cái chết của Ðức Giêsu, một dân tộc mới được khai sinh, Giáo hội được chào đời.

Cầu Nguyện:

Lạy Cha, hôm nay Ðức Giêsu cho chúng con thấy thái độ gian ác và cứng lòng của người Do thái. Phần chúng con, cũng rất nhiều khi chúng con khước từ tình yêu của Cha, và trở nên những người con bội nghĩa, khi chúng con phạm tội làm mất lòng Cha. Xin cho chúng con trong Mùa Chay này biết thực lòng sám hối và quay về với Cha để được ơn tha thứ. Amen.