Translate

Thứ Ba, 17 tháng 12, 2013

CÔ BÉ BÁN DIÊM



 http://webcuato.com/ke-lai-truyen-co-be-ban-diem-cua-andersen-915.html

Đêm giao thừa, mọi người sum họp dưới mái ấm gia đình để cùng nhau tiễn đưa năm cũ, đón chào năm mới trong không khí thiêng liêng, ngập tràn hạnh phúc. Riêng cô bé mồ côi mẹ, đầu trần, chân đất, váy áo phong phanh, bụng đói meo đang dò dẫm trong bóng tối. Suốt ngày hôm nay, cô bé chẳng bán được bao diêm nào cả. Cô sợ về nhà, người cha tàn nhẫn sẽ đánh đòn.


Lúc này, quang cảnh xung quanh đẹp đẽ, ấm áp lạ thường. Cửa sổ mọi nhà đều sáng rực ánh đèn và trong phố sực nức mùi ngỗng quay. Những hình ảnh ấy gợi cho cô bé nhớ lại năm xưa được đón giao thừa cùng bà nội trong căn nhà xinh xắn có đầy dây thường xuân bao quanh. Nhưng rồi những tai họa liên tiếp xảy ra khiến gia đình cô tan nát.


Cô bé đói và rét lắm! Giờ đây, cô ngồi nép trong một góc tường,g iữa hai ngôi nhà để tránh những cơn gió rét như roi quất vào da thịt. Cô không muốn về nhà, vì ở nhà thì cũng vẫn đói, rét như ở ngoài đường. Hai cha con cô bé sống trên căn gác sát mái và mặc dầu đã nhét giẻ rách vào các khe hở lớn trên vách, gió vẫn thổi rít vào trong nhà.


Giữa đêm cuối năm buốt giá, cô bé lủi thủi một mình với chiếc giỏ đựng diêm vẫn còn nguyên. Đôi bàn tay nhỏ xíu cứng đờ vì lạnh. Cô ao ước được sưởi ấm, dù một chút thôi, bằng những que diêm. Cô rút một que diêm, tôi rơi ra theo, nằm ngay trên mặt giỏ. Cô bé quẹt que diêm vào tường, que diêm bén lửa thật là nhạy. Ngọn lửa lúc đầu xanh lam, dần dần trắng ra, rực hồng lên quanh que gỗ, sáng chói trông đến vui mắt.


Ngọn lửa soi tỏ niềm vui sáng ngời trong đôi mắt xanh tuyệt đẹp của cô bé tội nghiệp. Hơ bàn tay trên que diêm cháy sáng rực như than hồng, cô bé tưởng như đang được ngồi trước một lò sưởi bằng sắt có những hình nổi bằng đồng bóng nhoáng. Trong lò, lửa cháy nom đến vui mắt và tỏa ra hơi nóng dịu dàng. Cô bé nghĩ: “Chà! Khi tuyết rơi phủ kín mặt đất, gió bấc thổi hun hút, trong đêm đông rét buốt mà được ngồi hàng giờ như thế, trước một lò sưởi, thì thích biết bao!”.


Nhưng cô bé vừa duỗi chân ra thì ngọn lửa vụt tắt. Que diêm đã tàn hẳn. Hình ảnh lò sửa cũng biến mất. Cô bé bần thần nhớ ra rằng cha bắt mình đi bán diêm. Vậy mà! Một thoáng sợ hãi vụt qua trong óc cô bé.


Những hình ảnh đẹp đẽ do cô tưởng tượng ra khi ngắm nhìn ngọn lửa ở đầu que diêm thứ nhất cháy sáng rực đã lôi cuốn, thúc giục cô bé đốt que diêm thứ hai. Cô muốn được tiếp tục sống trong thế giới kì diệu ấy. Trước ánh lửa bập bùng, bức tường như biến thành một tấm rèm bằng vải màu. Cô bé nhìn thấu vào tận trong nhà. Bàn ăn đã dọn, khăn trải bàn trắng tinh, trên bàn toàn bát đĩa bằng sứ quý giá và có cả một con ngỗng quay. Nhưng kì diệu nhất là ngỗng ta nhảy ra khỏi đĩa và mang cả dao ăn, nĩa cắm trên lưng, tiến về phía cô.


Một ngọn gió ào qua, que diêm phụt tắt. Trước mặt cô bé vẫn là bức tường xám xịt và lạnh lẽo. Những ảo ảnh tươi đẹp chỉ hiện ra trong giây lát, còn cái đói, cái rét và bóng tối vẫn vây bủa, hành hạ cô bé đáng thương.


Tuy vậy, cô bé vẫn không ngừng ao ước. Cô muốn đêm Giáng Sinh mình cũng có một cây thông Noel thật lớn, trang trí lộng lẫy. Cô quẹt que diêm thứ ba. Bỗng nhiên, một cây thông giống y như thế hiện ra trước mắt cô. Hàng ngàn ngọn nến sáng rực, lấp lánh trên cành lá xanh tươi. Rất nhiều bức tranh màu sắc rực rỡ như những bức tranh bày trong các tủ kính cũng hiện ra, đẹp tuyệt vời! Que diêm vụt tắt. Xung quanh cô bé vẫn là những bức tường lạnh lẽo và đêm tối. Cô chợt nghĩ đến người bà hiền hậu rất yêu thương cô. Nhưng bà đã mất rồi! Cô muốn được gặp bà biết bao!


Cô bé tiếp tục bật que diêm thứ tư. Người bà kính yêu hiện ra trong ánh lửa lung linh với nụ cười hiền hậu. Cô bé tha thiết năn nỉ: “Bà ơi! Bà cho cháu đi theo với! Cháu biết que diêm này mà tắt thì bà cũng sẽ biến mất như lò sưởi, ngỗng quay và cây thông Noel lúc nãy; nhưng xin bà đừng bỏ cháu ở nơi này! Trước đây, lúc bà chưa về với Thượng Đế chí nhân, bà cháu ta đã từng sung sướng biết bao! Dạo ấy, bà đã từng nhủ cháu rằng nếu ngoan ngoãn, cháu sẽ được gặp lại bà. Bà ơi! Cháu van bà, bà xin Thượng Đế chí nhân cho cháu được về với bà. Chắc Người không từ chối đâu!”


Que diêm cháy đến tận đầu ngón tay cô bé, nóng bỏng. Ngọn lửa đã tắt và ảo ảnh rực sáng trên khuôn mặt cô bé cũng biến mất.


Lần thứ năm, cô bé quẹt tất cả những que diêm còn lại trong bao. Cô muốn níu kéo bà để được bà cho đi theo đến một thế giới không còn đói rét và đau khổ. Các que diêm nối nhau cháy sáng như ban ngày. Chưa bao giờ cô bé lại thấy bà mình to lớn và đẹp lão như thế này. Bà nhẹ nhàng cầm lấy tay cô bé rồi hai bà cháu cùng bay vút lên cao, cao mãi. Chẳng còn đói rét, đau buồn nào đe dọa họ nữa. Họ đã về với Thượng Đế.


Sáng hôm sau, mọi người vui vẻ kéo nhau ra đường đón mừng năm mới. Rồi vài người phát hiện ra một cô bé có đôi mắt hồng hào và đôi môi đang mỉm cười. Cô bé đã chết vì giá rét trong đêm giao thừa. Họ bảo nhau: “Con bé đã đốt hết một bao diêm. Chắc nó muốn sưởi cho ấm”. Một ông khách nhặt que diêm còn sót lại rơi trên nắp giỏ, nói lớn: “Ô! Nó bỏ sót một que diêm đây này!”. Vâng! Que diêm đó chính là tôi. Vì thế mà tôi đã chứng kiến đầu đuôi câu chuyện về cô bé bán diêm vô cùng đáng thương ấy.

Truyện cổ của Hans Christian Andersen


Cầu Nguyện:



          Lạy Chúa! Chúa muốn nói gì với con qua câu chuyện kể về cô bé bán diêm trong đêm đông giá lạnh? 
          Lạy Chúa! xin cho con là một que diêm sưởi ấm cho một kẻ bé mọn nào đó trong Mùa Giáng Sinh này. Xin cho con có thể đốt lên một ánh sáng tuy nhỏ nhưng ấm áp cho cuộc đời này để làm chứng cho tình yêu của Chúa. 
          Chúa ơi, xin giúp con biết ước mơ và xin ban thêm sức mạnh để con có thể thực hiện ước mơ của mình.

ÐÓN NHẬN

Truyện cổ Trung Hoa kể: Ở miền núi Hô-Phu, có một người đàn bà bán rượu tên là Wong. Một hôm, xuất hiện một vị thiền sư đạo đức đến trọ ở gần quán, dù không có tiền ngài cũng được bà chủ quán tiếp đãi nồng hậu. Vị thiền sư ở đó khoảng ba năm. Trước khi cáo từ, ngài đào một giếng cạnh quán. Mọi người ngạc nhiên khi một dòng nước trong vắt vọt lên, họ nếm thử thì thấy đó là một loại rượu hảo hạng. Từ đó, bà chủ quán trở thành nổi tiếng giàu có. Ít lâu sau, vị thiền sư lại ghé ngang quán, ngài hỏi thăm bà chủ quán về giếng rượu. Bà này than phiền: Rượu tốt nhưng tôi không bao giờ có dư để dự trử!? Vị thiền sư mỉm cười rồi lẳng lặng viết lên tường: Trời đất thật bao la, nhưng lòng tham của con người còn mênh mông hơn thế nữa.? Dù không tốn kém bà chủ vẫn có rượu để bán thế mà vẫn không hài lòng. Viết xong thiền sư lẳng lặng ra đi, và dòng rượu cũng khô cạn.

Chia Sẻ: 

Người đàn bà thay vì biết ơn và ca ngợi lòng đại lượng của trời, bà lại than phiền vì không có nhiều rượu để dự trử. Ðôi khi chúng ta cũng giống như người đàn bà đó: được voi đòi tiên. Kinh nghiệm thông thường cho thấy: Ít người được thoả mãn với mình, họ thường sa vào tình trạng đứng núi này trông núi nọ, và cho rằng mình kém may mắn hơn người khác. Chúng ta thường mang tật so sánh và hay lặp lại câu: giá tôi được như người này người nọ. Chúng ta quá bận tâm với những ý nghĩ viễn vông, mà quên vui hưởng những ơn phúc hiện tại.

Thấu hiểu tâm trạng này Chúa Giesu đã đưa ra dụ ngôn: “ông chủ thuê người làm vườn nho” để giáo dục chúng ta qua các nhân vật trong đó. Ông chủ có lòng nhân ái vì ông thuê thợ làm việc không phải vì nhu cầu của công việc, nhưng vì muốn cho người thợ nào cũng có công ăn việc làm, để bảo đảm đời sống hàng ngày, vì thế ông đã trả lương đồng đều mà không tính toán hơn thiệt.

Cũng vậy, những ơn lành hồn xác mà ta đang hưởng dùng là do lòng nhân lành Chúa ban. Những ơn đó vượt quá những gì chúng ta đáng được. Vì thế, tạ ơn Chúa là bổn phận suốt đời chúng ta. Thánh Phaolô đã viết: Tôi có là gì cũng là nhờ ơn Thiên Chúa?(1 Cr 15, 10). Hơn nữa lòng nhân ái của ông chủ không bị lệ thuộc vào khế ước hay ranh giới nào nhưng chỉ là lợi ích của người lãnh nhận. Thiên Chúa ban ơn không do công lao chúng ta nhưng là vì lợi ích phần rỗi của mỗi người. Như thế, điều phải làm là khiêm nhường đón nhận ơn Chúa mà không kiêu căng tự mãn. Chúng ta hãy dùng những ơn lành Chúa ban để phục vụ Chúa và anh em như lời Thánh Phaolô dạy: Mỗi người đừng tìm lợi ích cho riêng mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác (Pl 2,4)


Cầu Nguyện: 

Lạy Chúa, con biết rằng do lòng nhân lành, mà Chúa luôn ban cho con những ơn phúc có khi còn vượt quá lòng con mong đợi. Xin Chúa mở rộng tâm hồn con để biết đón nhận ơn Chúa với lòng tri ân, và biết dùng khả năng Chúa ban để phục vụ Chúa và anh em con.

NHÌN THẤY CHÚA TRONG NGƯỜI ANH EM

Chuyện kể rằng từ một quần đảo nọ, có hai bác nông phu luôn kình địch và tìm cớ gây chiến với nhau. Chỉ cần một sự xích mích mất lòng nho nhỏ cũng đủ làm cho họ gây gỗ với nhau, đời sống của cả hai càng ngày càng thêm bất hạnh, không những chỉ cho hai người ấy mà thôi, nhưng còn làm cho bầu khí của dân làng cũng thêm nặng nề nữa.

Thế rồi một hôm, mấy người trưởng lão trong làng tìm cách giải hòa cho hai bác nông phu ấy. Sau khi đã tìm đủ mọi cách, cuối cùng họ đề nghị với một trong hai người ấy: tốt hơn ông nên đi gặp Thiên Chúa. Người ấy hỏi lại?

- Tôi đồng ý, nhưng phải đi gặp Thiên Chúa ở đâu chứ?

Họ nói: chuyện đó đơn giản lắm, ông cứ leo lên đỉnh núi rồi ông sẽ thấy.

Không chút chần chừ do dự, sáng hôm sau ông ta khăn gói với cái gậy trên tay ra đi gặp Thiên Chúa. Sau nhiều ngày vất vã leo núi, ông đã lên tới đỉnh núi và ông nghĩ là Thiên Chúa đã đợi ông sẵn đó lâu rồi. Ông xoa dụi mắt cố nhìn đây đó xem dung mạo của Thiên Chúa ra sao. Nhưng vô ích, ông chỉ thấy ngọn núi trọc, phía trên chỉ có trời cao, mây bay, phía dưới, sâu thăm thẳm, chỉ có biển rộng, sông dài, đồng ruộng mênh mông thẳng cánh cò bày. Sau cùng ông chợt hiểu ra rằng: dung mạo của Thiên Chúa chính là gương mặt dễ ghét của người hàng xóm, là thù địch không đội trời chung của ông. Không ai biết được ông có gặp được Thiên Chúa hay không hoặc ông đã nghe được những lời dạy bảo nào từ Thiên Chúa. Chỉ có một điều ai cũng biết được là từ ngày ông xuống núi về làng, ông không còn là người hay gây chiến như trước nữa. Thế nhưng, bất chấp tất cả những cố gắng của ông để trở nên hiền lành và với thiện ý làm hòa của ông, tất cả mọi sự đều kể như thất bại hoàn toàn bởi vì người bạn của ông không chịu nhượng bộ, vẫn tìm cách gây chiến gieo hận thù.

Một lần nữa, các vị trưởng lão trong làng lại họp nhau để tìm giải pháp hòa giải cho hai người. Sau cùng họ đề nghị là người thứ hai cũng nên đi gặp Thiên Chúa. Khác với người thứ nhất, ông này tìm đủ mọi cách để chối thoát, nhưng cuối cùng họ đã thành công thuyết phục ông ra đi gặp Thiên Chúa trên núi. Và cũng chính trên đỉnh núi đó, trong lúc ông ngồi cô đơn một mình, bình tỉnh, lặng lẽ. Tâm hồn ông bắt đầu nhận ra Thiên Chúa có dung mạo giống như người thù địch của ông mà ông hằng gây chiến. Thế là từ ngày đó, tính tình ông thay đổi hẳn, cả hai người làm hòa với nhau, và cả dân làng sống trong cảnh thuận hòa vui vẻ.

Chia Sẻ:

Chiều kích xã hội của đời sống con người đầy những tiếp xúc và va chạm, không phải lúc nào ta cũng thực sự tiếp xúc với tất cả mọi người đi qua bên cạnh ta và thực sự hiểu biết họ. Việc tiếp xúc đích thực vượt xa những sự đụng chạm của thân xác, nó là sự ý hợp tâm đầu giữa hai bản vị của hai tâm hồn. Giá trị sâu sắc của mỗi người được đo lường qua sức mạnh và chiều sâu của việc tiếp xúc, nhưng sức mạnh của việc tiếp xúc đó không dựa trên một mớ đức tính bên ngoài hoặc đức tính nội tâm mà thôi.

Nói cách khác, sức mạnh của việc tiếp xúc được do lường và phát triển từ một khoảng trống dành cho người khác mà chúng ta biết tạo ra được trong chính tâm hồn mình. Nếu bạn muốn thực sự tiếp xúc với những người khác hãy biến nội tâm bạn trở thành một sa mạc mênh mông, và hãy tạo ra sự yên tĩnh trong con người bạn để những người khác có thể tìm thấy an bình va nhận ra Thiên Chúa nhãn tiền. Ở đâu có sự tiếp xúc thực tình trong an bình và trong sự hiện diện của tình thương của Chúa, ở đó mọi va chạm sẽ được lắng dịu, mọi tranh chấp sẽ được san bằng, và đắng cay sầu khổ sẽ trở nên mát dịu như làn sương mai chiếu ánh nắng bình minh.

Cầu Nguyện :

Lạy Chúa, xin chiếu soi tâm hồn con. Xin giúp con biết nhận ra phản ảnh ánh sáng của dung nhan Chúa trên gương mặt của mỗi người đi qua bên cạnh con: trên gương mặt sầu khổ của bệnh nhân bị héo mòn vì đau đớn, trên gương mặt bơ phờ của những người bị đè nặng vì cảnh cô đơn, vì sự bỏ rơi, trên gương mặt xanh xao nhợt nhạt của người đang lặng lẽ từ giả cõi đời. Vì lạy Chúa, chỉ khi nào con tiếp nhận tha nhân, con mới nhận ra dung nhan Chúa, và một khi con gặp thấy Chúa là con thấy Thiên Chúa Cha vậy.

Lạy Chúa, xin cho con biết rằng nếu con không tìm Ngài trong dấn thân và trong phục vụ, con sẽ không gặp Ngài trong cuộc sống. Amen.