Translate

Thứ Hai, 26 tháng 2, 2018

THỨ BA TUẦN II MÙA CHAY


Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em. (Mt 23,11)

Bài Tin Mừng hôm nay là những lời lên án của Chúa Giêsu đối với các nhà thông luật Do-thái về cách sống tự tôn, giả hình và ngôn hành bất nhất của họ. Đức Giêsu mời gọi các môn đệ đi theo Người thuộc mọi thời, trong đó có chúng ta hôm nay, đừng sống theo các luật sĩ và những người Pha-ri-sêu, bởi vì:

Các người Pharisiêu với áo vàng mũ miện đai nịt màu mè, nhưng trong tâm hồn đầy những đam mê và suy nghĩ xấu xa. Họ sống đóng kịch và khoe khoang khi muốn tỏ ra cho những người xung quanh thấy những việc làm của họ để được ca tụng. Người Pharisiêu thích chiếm chỗ nhất nơi công cộng, họ bắt người ta bái chào kính trọng họ ngoài đường phố, họ tự tôn, tự đại, tìm giá trị, danh giá bên ngoài mà bên trong thì đáng chê trách vì cuộc sống thiếu đạo đức đích thực. Chúng ta cũng dễ bị ảnh hưởng điều này, vì cám dỗ lớn nhất của con người, đó là đam mê quyền lực, ai cũng mong muốn được ăn trên ngồi trốc, được mọi người tung hô kính trọng… để rồi từ đó làm mọi cách (cho dù là đê tiện thấp hèn) để đạt được mục đích chức quyền… Đó cũng là thái độ của không ít người trong chúng ta, tìm cách che giấu sự thật về con người của mình khi không khiêm tốn đón nhận những khuyết điểm của mình, không đón nhận sự thật về con người của mình. Lời Chúa mời gọi chúng ta trong khi lo trang điểm cho mình vẻ đẹp bề ngoài, thì cũng lo trang sức cho tâm hồn những nhân đức thánh thiện, lo cải hoá đời sống để được đổi mới trong mọi sự.

Nhiều tiến sĩ luật Do Thái ưa nói về luật cách tỉ mỉ, nhưng lời nói của họ không đi đôi với việc làm, nói một đàng làm một nẻo, lo tô vẽ cho cái bề ngoài nhằm che đậy sự xấu xa lợi dụng trong lòng họ. Họ dạy luật thì để cho dân giữ, còn chính họ lại không làm gương, họ dùng luật làm thứ bình phong che chắn và làm lợi cho họ, còn dân chúng thì cảm thấy nặng nề, để rồi thay vì yêu mến và tự nguyện, họ chỉ giữ vì buộc phải giữ và luật trở thành gánh nặng đè trên vai họ. Thật ra, điều này không xa lạ gì với chúng ta hôm nay, vẫn còn đó đây những vị này vị nó thuyết thì hay nhưng lại tự chuẩn cho mình; dạy dỗ người ta nhưng chính mình lại không giữ, thậm chí còn tệ hơn – ngôn hành bất nhất. Lại nữa, chỉ thấy người khác phạm luật và trách mắng họ, nhưng thực tế thì “suy bụng ta ra bụng người” – chính mình còn bê bối hơn cả những gì mình trách người… Xin Chúa giúp chúng ta, biết dùng chính hành động làm cho lời nói có giá trị, nghĩa là khi muốn ai giữ luật, thì mình phải biết làm gương trước – ngôn hành như nhất.

Như thế, theo Đức Giê-su, các luật sĩ và những người Pha-ri-sêu là những người chỉ sống theo vẻ bề ngoài: bề ngoài trên môi miệng, bề ngoài với việc làm, và bề ngoài trong tương quan với người khác. Ngang qua việc vạch rõ lối sống cụ thể của một nhóm người, Đức Giê-su mời gọi chúng ta nhìn lại chính bản thân mình, để nhận ra rằng, sống theo vẻ bề ngoài ở trong mọi lãnh vực, ở mọi nơi và ở mọi cấp độ, là một căn bệnh phổ biến và nan y của mọi người, trong đó có chính bản thân chúng ta. Đức Giê-su rất “nhạy cảm” với căn bệnh sống theo vẻ bề ngoài và đã nhiều lần nhắc nhở các môn đệ; và hôm nay trong bài Tin Mừng, Ngài lại tiếp tục cảnh báo “các môn đệ” và cả đám đông nữa về căn bệnh này ngang qua những con người cụ thể là luật sĩ và Pha-ri-sêu. Thay vì phô trương, Đức Giêsu mời gọi chúng ta thực hành các việc đạo đức một cách kín đáo. Không phải để thi thố sự khiêm nhường, nhưng để trở nên giống Cha của mình là Thiên Chúa, Đấng hiện diện nơi kín đáo và hành động một cách kín đáo. Trong những lời chúng ta vừa trích dẫn, Đức Giêsu dùng tới sáu lần từ “kín đáo”, trong đó năm lần được dùng để nói về Thiên Chúa Cha: Cha của anh hiện diện nơi kín đáo; Cha của anh thấy trong kín đáo. Như thế, Thiên Chúa, Cha của Đức Giêsu, là “Đấng kín đáo” và Ngài mời gọi chúng ta cũng trở nên “những người con kín đáo” như Cha của mình.

Hơn thế nữa, trong vô số những biểu hiện của căn bệnh sống theo vẻ bề ngoài, Đức Giê-su đặc biệt chú ý đến cách xưng hô; và dường như Ngài đặt những cách xưng hô bình thường của chúng ta thành vấn đề, vì chúng ta vẫn gọi người khác và người khác cũng vẫn gọi chúng ta là “thầy”, là “bà thầy” là “cha”, là “đức cha”, là “bề trên thứ cấp” hay “bề trên thượng cấp”… ; và những cách xưng hô tương đương đối với phái nữ.

Bởi lẽ, cách xưng hô diễn tả tương quan và những cách xưng hô như thế rất dễ làm cho tương quan của chúng ta trở thành lệch lạc, nghĩa là chúng ta có thể tự biến mình hay người khác thành thần linh, thành một thứ tuyệt đối hay không thể không có, thành trung tâm, thành mẫu mực, thành điểm qui chiếu mà mọi người phải hướng về. Bệnh vẻ bề ngoài ở dạng này có thể nó là nghiêm trọng nhất. Như thế, rốt cuộc Đức Giêsu không muốn chúng ta thay đổi cách xưng hô, cho dù đã có những thay đổi thực sự về cách xưng hô theo hướng tương quan huynh đệ của Tin Mừng, nhất là sau Công Đồng Vaticanô II, và chắc chắn đã có ảnh hưởng trên cách chúng ta tương quan với nhau. Bởi vì, xét cho cùng, cách xưng hô vẫn dừng lại ở bên ngoài. Nhưng, sâu xa hơn nhiều vẻ bề ngoài, Đức Giêsu mời gọi chúng ta thay đổi cách chúng ta sống với nhau, ứng xử với nhau: dù chúng ta là ai, có chức vụ gì hay ở độ tuổi nào, tất cả chúng ta đều có một Cha, một vị Thầy, đồng thời là vị Lãnh Đạo, và do đó, chúng ta là anh chị em của nhau trong Chúa. Đó mới là Sự Thật và chúng ta được mời gọi sống theo Sự Thật này, theo khuôn mẫu của chính Đức Giê-su. Hiểu như thế, có nghĩa là Chúa Giêsu chỉ muốn các môn đệ và cả chúng ta chỉ tôn thờ một Thiên Chúa, và noi bước theo một vị thầy duy nhất là Chúa Giêsu Kitô mà thôi. Chúng ta gọi các linh mục là cha hay tu sĩ là thầy không phải để “tôn thờ” hay “lệ thuộc” các ngài, nhưng nhìn nhận các ngài như là tôi tớ của Thiên Chúa hướng dẫn chúng ta tôn thờ Thiên Chúa và bước theo con đường Chúa Giêsu đã đi.

TÓM LẠI: Mọi người chúng ta được Chúa mời gọi mỗi người mỗi công việc bổn phận trong Hội Thánh, chúng ta hãy học lấy tinh thần khiêm tốn và hăng say phục vụ vì lòng yêu mến, chứ không phải ham muốn chức quyền và danh vọng để được hơn người…Khi có trách nhiệm lãnh đạo. Chúng ta cần có tinh thần phục vụ hơn háo danh, ý thức trách nhiệm của mình hơn đòi hỏi người khác. Ai làm lớn thì phải phục vụ anh em, ai làm đầu thì phải làm đầy tớ mọi người. 

*******
Lạy Chúa, xin dạy chúng con biết khiêm tốn trong bậc sống và trách nhiệm Chúa giao phó, để chúng con không tìm vinh quang cho riêng mình mà là Chúa được vinh danh trong chính cuộc sống của mọi người chúng con. Amen

Chủ Nhật, 25 tháng 2, 2018

THỨ HAI TUẦN II MÙA CHAY

Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy (Lc 6, 38b)

Mùa chay thánh, là hành trình thời gian, Mẹ Giáo Hội mời gọi con cái mình làm cuộc biến đổi cuộc sống, sự biến đổi mang lại hiệu quả cao nhất, và mang lại niềm vui nhất cho bản thân và cho những người chung quanh, không gì hơn chính là “mùa tập sống nhân từ”, Chính vì thế bài Tin Mừng hôm nay là lời dạy của Chúa Giêsu về việc xét đoán và sự tha thứ. Chúa Giêsu vạch rõ tính cách của nhiều người trong chúng ta thường thì không thấy lỗi lầm của mình, nhưng lại xoi mói dò xét cái lỗi của người khác mà lắm khi cái lỗi của chúng ta còn lớn gấp trăm lần cái lỗi của tha nhân. Chúng ta dễ nói lên ý kiến, nhận định chủ quan về người khác, mặc dù chúng ta chẳng có trách nhiệm để làm việc đó, hay sẵn sàng rêu rao cho mọi người biết về những sai lầm, khiếm khuyết của người khác nhằm ngầm ý đề cao mình hơn. Chúa Giêsu nhấn mạnh: “Vì anh em xét đoán thế nào thì cũng sẽ bị xét đoán như vậy; anh em đong đấu nào thì sẽ được đong bằng đấu ấy”. Người khẳng định về cách đối xử của chúng ta với anh em đồng loại sẽ được trả lời trong ngày sau hết, tại có khi sẽ xảy ra ngay tại đời này. Chúa Giêsu không cấm chúng ta có những nhận xét khách quan, những nhận xét phân biệt phải trái, sai quấy. Nhưng khi chúng ta kết tội và lên án lương tâm người anh em, là chúng ta xâm phạm quyền chỉ dành riêng cho Thiên Chúa. Trong đời sống cộng đồng, điều này dễ xảy ra khi chúng ta có một chút gì hơn anh chị em mình thì dễ dàng dùng mình làm tiêu chuẩn để lên án người khác, hay những khi “suy bụng ta ra bụng người”, mắt mình dính bụi thì thấy mọi thứ đều bẩn.

Mặt khác, mang trong mình sự hận thù, thì chính ta khổ trước, ăn không ngon ngủ không yên vì tức giận ấm ức, trằn trọc nghĩ kế trả đũa… Nhưng khi ta tha thứ thì không phải lo nghĩ gì và tâm hồn thanh thản, nhất là khi ta tha thứ thì ta không còn kẻ thù mà lại được bạn hữu. Tha thứ lại là một cách trả thù ngọt ngào nhất mà đối phương không ngờ, và làm cho chính đối phương dằn vặt vì nhận ra chính họ sai khi xúc phạm đến một người tốt, cuối cùng làm cho đối phương cảm kích và thay đổi thái độ. Lại nữa, khi sự tha thứ trong tương quan giữa người với người được thực hiện, lại chính là tiêu chuẩn Chúa xét công trạng cho chúng ta đáng được ân thưởng Nước Trời. Vì: “Anh em đừng xét đoán để khỏi bị đoán xét, đừng kết án để khỏi bị Thiên Chúa tuyên án…” Lỗi lầm giữa chúng ta với nhau chẳng là gì so với lỗi phạm giữa chúng ta với Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa đã ngàn lần tha thứ cho chúng ta thì đến lượt chúng ta cũng phải tha thứ cho nhau. Chúa cho mưa xuống trên người lành cũng như kẻ dữ, thì tại sao chúng ta phải phân biệt thương ai ghét ai? Hơn thế nữa, lòng nhân từ còn mời gọi chúng ta tha thứ cho người khác vì chính chúng ta cũng cần được Thiên Chúa thứ tha. Không ai trong chúng ta là người trong sạch ngoại trừ Thiên Chúa. Tội nguyên tổ đã di căn trên chúng ta khiến chúng ta phải đau khổ và phải chết. Chỉ có ơn công chính của Thiên Chúa mới rửa sạch mọi tội lỗi của nhân loại. Vì thế muốn được Thiên Chúa tha thứ chính chúng ta cũng phải tha thứ cho nhau. Ơn tha thứ đến từ Thiên Chúa nhưng nó chỉ được thực hiện khi chúng ta mở lòng đón nhận và tha thứ cho người khác. Quả thực, lòng quảng đại của Thiên Chúa không bao giờ vơi cạn nếu chúng ta biết khiêm tốn cầu xin. Việc thi hành lòng nhân từ còn là thái độ chia sẻ với tha nhân. Chia sẻ không làm chúng ta hao mòn mất mát nhưng để được phong phú hóa, được lớn lên trong ân sủng và tình yêu. Ở một khía cạnh khác, lòng nhân từ còn được gọi là đức Mến, đây là nhân đức nền tảng của mọi nhân đức. Như chiếc khăn được đan dệt bởi nhiều sợi chỉ ngang dọc làm nên tính bền chặt, đức mến thể hiện bằng mối tương giao giữa con người với Thiên Chúa và giữa con người với nhau. Nếu một trong hai tương quan đó gãy đổ thì chúng ta không thực thi được đức mến. Giáo hội dạy chúng ta một điều răn quan trọng nhất đó là mến Chúa yêu người. Chúng ta phải kính mến Thiên Chúa vì Người là Đấng quyền năng đã tạo thành trời đất muôn vật. Người đã cho Con Một là Đức Giêsu sinh xuống trần gian để cứu chuộc nhân loại. Chúng ta phải yêu mến mọi người vì họ được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa, là đối tượng được Thiên Chúa yêu thương và ban ơn cứu độ.

TÓM LẠI: Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Chúa Giêsu mạc khải cho chúng ta biết Thiên Chúa là Cha nhân từ; đồng thời Ngài cũng chỉ cho chúng ta phải sống thế nào để xứng đáng là con Cha trên trời: Đó là phải có lòng nhân từ, đừng xét đoán, đừng kết án nhưng biết tha thứ và biết cho đi. Đặc biệt, Chúa Giêsu cho biết tuỳ cách ta đối xử với người khác như thế nào mà chúng ta sẽ bị hay sẽ được Thiên Chúa đối xử như vậy. Nếu chúng ta xét đoán người khác, chúng ta cũng bị Thiên Chúa xét đoán; do đó, xét đoán hay kết án người khác là xét đoán hay kết án chính mình. Và đồng thời, cho người khác cách quảng đại, cũng là cách thức để nhận lãnh muôn hồng ân Chúa; vì Chúa không thua lòng quảng đại của chúng ta.

*********
Lạy Chúa! Qua lời Chúa dạy hôm nay, xin cho chúng con bỏ được tính xấu là thích lên án, xét đoán người khác. Xin cho chúng con -khi cảm nhận được tình Cha yêu thương, bao dung, tha thứ, ban tặng cho chúng con biết bao hồng ân; đặc biệt đã ban Người Con yêu dấu của Ngài- thì cũng hãy biết đối xử quảng đại với mọi người xung quanh chúng con. Chỉ như thế, chúng con mới xứng đáng là con Cha trên trời và là anh chị em với nhau. Amen.

Thứ Bảy, 24 tháng 2, 2018

CHÚA NHẬT II MÙA CHAY - B

Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người(Mc 9, 7b)

Tin Mừng thuật lại câu chuyện Đức Giê-su biến hình trước mặt ba môn đệ thân tín là các ông: Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an. Chính khi ở trên núi cao và trong lúc Đức Giê-su đang cầu nguyện sốt sắng, mà các môn đệ đã nhìn thấy khuôn mặt của Người biến đổi: Dung nhan Người trở nên sáng ngời như Mô-sê xưa kia, sau khi ông được gặp gỡ Đức Chúa (x. Xh 34,29-35); Y phục của Đức Giê-su trở thành trắng tinh như ánh sáng là biểu hiện vinh quang thiên giới dành cho các người được Thiên Chúa tuyển chọn; Đồng thời có hai nhân vật đại diện Lề Luật và ngôn sứ thời Cựu Ước là ông Mô-sê và ông Ê-li-a hiện ra đàm đạo với Người. Như vậy tất cả Cựu Ước đều hiện diện để làm chứng và tôn vinh Đức Giê-su. Điều đáng lưu ý là giữa vinh quang ấy, hai vị này đã đàm đạo về cái chết của Đức Giê-su, như một cuộc Vượt Qua Mới mà Người sắp trải qua tại thủ đô Giê-ru-sa-lem. Ngoài ra còn có đám mây tượng trưng cho sự hiện diện của Thiên Chúa, và tiếng phán của Chúa Cha từ trong đám mây xác nhận Đức Giê-su là Mô-sê Mới của thời Cánh Chung, như ông Mô-sê đã từng tuyên sấm (x. Đnl 18,15). Bài Tin Mừng còn cho thấy, đức tin cần thiết để giúp con người đối diện với đau khổ và khó khăn thử thách. Từ những ngày đầu, các tông đồ đi theo Chúa Giêsu với nhiều mục đích khác nhau. Các ông nuôi nhiều hy vọng mang tính vật chất, tìm kiếm địa vị, danh vọng theo kiểu trần gian. Chúa Giêsu đã phải nhiều lần thanh luyện ý hướng của các ông để các ông có thể đón nhận sự kiện tử nạn thập giá mà Chúa Giêsu sắp trải qua. Chúa Giêsu đã dùng nhiều cách để giúp các tông đồ tin Ngài là Đấng Cứu thế, là Thiên Chúa. Biến cố biến hình trên ngọn núi cao trước mặt các tông đồ hôm nay nhắm tới mục đích đó.

Trước khi nói với các tông đồ về việc: “Con người sẽ bị người ta bắt, bị hành hạ và đóng đinh trên thập giá”, Chúa Giêsu đã hé tỏ cho các ông thấy vinh quang Thiên Chúa ở nơi Ngài. Đưa các tông đồ lên núi cao, Ngài biến đổi hình dạng trước mắt các ông. Dung nhan Ngài chói lọi như mặt trời, y phục trở nên trắng như ánh sáng, ông Mose và ông Elia hiện ra đàm đạo với Người. Chi tiết này, Tin Mừng cho thấy, ẩn khuất đằng sau con người của thầy Giêsu, chính là một vị Thiên Chúa quyền năng. Vì biết trước rằng, cuộc thương khó Chúa Giêsu sắp trải qua sẽ là một thử thách kinh khủng đối với các tông đồ nên Chúa Giêsu đã muốn dùng biến cố biến hình để gia tăng lòng tin cho các ông. Một khi tin Chúa Giêsu là Thiên Chúa quyền năng, các tông đồ có thể đón nhận biến cố thập giá và tử nạn của Chúa Giêsu với sự bình an, tin tưởng. Khi chứng kiến vinh quang của Thầy, các tông đồ ngây ngất trong hạnh phúc. Các ông ước ao kéo dài mãi giây phút hạnh phúc này, không muốn trở về với thực tế cuộc sống. Vì thế, Simon Phêrô thưa cùng Chúa: Thưa Thầy, chúng con được ở đây thì tốt quá! Nếu Thầy muốn, chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Mose và một cho Elia. Thiên Chúa đã không muốn các tông đồ mải mê ngây ngất với hạnh phúc trên núi, nhưng muốn các ông trở về với hiện tại. Chúa Giêsu không cho các tông đồ kể lại với ai, để trong sự thinh lặng, các ông suy gẫm về những điều đã nghe và đã thấy.

Thiên Chúa Cha đã giới thiệu Chúa Giêsu cho các tông đồ và xác nhận Chúa Giêsu là Con yêu dấu của Ngài, đồng thời đòi buộc các môn đệ phải vâng nghe lời của Chúa Giêsu. Thiên Chúa đã có thể cứu con người bằng nhiều cách, nhưng Ngài lại muốn cho Con của Ngài đến ở với con người, yêu thương và cứu chuộc con người bằng cuộc đau khổ thập giá và cái chết của Ngài. Là Con yêu dấu của Chúa Cha, Chúa Giêsu đã hoàn toàn yêu mến và vâng phục thánh ý Cha. Vì thế, những kẻ tin Chúa Giêsu là Thiên Chúa, cũng phải có thái độ hoàn toàn vâng phục Lời của Ngài trong bất cứ hoàn cảnh nào. Từ trên núi đi xuống, Chúa Giêsu đã giải thích cho các tông đồ rõ hơn về cuộc tử nạn của Ngài và khẳng định với các ông về việc: Con Người từ cõi chết trỗi dậy. Nói điều này, Chúa Giêsu đã đưa các tông đồ đi một bước xa hơn trong niềm tin vào sự phục sinh Ngài sắp trải qua. Quả thật, chỉ sau cuộc phục sinh của Chúa, các tông đồ có dịp suy gẫm lại các sự kiện đã xảy ra mà chúa cho các ông được thấy, các ông càng thêm đức tin và trở thành người loan báo đức tin về Chúa Giêsu là Thiên Chúa, Đấng đã tử nạn và phục sinh.

TÓM LẠI: Theo Chúa Giêsu, chúng ta không tránh được mọi thử thách, nhưng chúng tin rằng, trong mọi thử thách, chúng ta không đơn độc, nhưng có Chúa ở bên nâng đỡ và gìn giữ chúng ta. Những lúc đau khổ, bệnh tật, thử thách liên tục như những cơn sóng vùi dập cuộc đời, chúng ta đừng hoảng loạn, đừng ngã lòng, vì tin rằng Chúa luôn cho chúng ta một giải pháp tốt nhất. Hãy vâng nghe lời Người, đó cũng chính là điều Chúa Cha muốn nói với từng người chúng ta. Chúa muốn chúng ta nghe lời của Chúa Giêsu trong vâng phục và yêu mến. Chỉ khi tin, vâng nghe và đem ra thực hành, chúng ta mới nhận ra được sự an ủi đỡ nâng cũng như nhận ra sự hiện diện của Chúa trong từng biến cố khó khăn của cuộc đời. Thật vậy, Thiên Chúa Cha muốn các tông đồ và mỗi chúng ta vâng nghe lời Chúa Giêsu, tức là nghe trong sự vâng phục, tin tưởng và phó thác cho Chúa Giêsu, như Chúa Giêsu vâng nghe và tin tưởng phó thác cho Chúa Cha. 

*******

Cuộc đời của mỗi chúng con luôn phải trải qua vui buồn, sướng khổ, sinh, lão, bệnh, tử, xin cho chúng con dù trong hoàn cảnh nào cũng luôn biết nhìn lên Chúa Giêsu tử nạn và phục sinh, để xin Ngài thêm đức tin và sức mạnh cho chúng con vượt qua. Xin Chúa giúp mỗi người chúng con biết để tâm lắng nghe và sẵn sàng vâng theo lời Chúa truyền dạy, dù lúc vui cũng như lúc buồn, để nhờ biết vâng nghe và thực hành, chúng ta trở nên những người con hiếu thảo của Chúa. Amen.

Thứ Sáu, 23 tháng 2, 2018

THỨ BẢY TUẦN I MÙA CHAY

Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện. (Mt 5, 48)

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta sống Đức ái với tha nhân. Đặc biệt là với những người mình không ưa, không thích. Bình thường khi gặp một người mình thích, thì mình dễ dàng nói chuyện, chia sẻ cho nhau nhiều vấn đề vui buồn trong cuộc sống. Còn khi gặp người mình có thành kiến, hoặc đã có lần cãi vã, bất đồng vì một chuyện nào đó, tự nhiên mình thấy không thoải mái, muốn tránh đường khác để khỏi gặp mặt.”. Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã cho chúng ta phương cách trong Tin Mừng hôm nay : hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5, 44). Mỗi khi chúng ta cưu mang hận thù thì đó là lúc chúng ta tự tạo nên kẻ thù. Mỗi khi chúng ta không thể tha thứ cho nhau và không cầu nguyện cho kẻ ghét mình, đó là lúc chúng ta tự giam hãm trong thù hận để tự hủy hoại mình. Thật vậy, giáo luật yêu thương của Đức Giêsu đã xóa bỏ nguyên tắc “ăn miếng trả miếng”. Luật yêu thương của Đức Giêsu mở ra con đường mới cho nhân loại. Con đường lấy thiện thắng ác, lấy tình yêu vượt thắng hận thù. Chỉ có yêu thương mới làm cho thù hận tiêu tan và tránh được vòng luẩn quẩn của bạo động và chiến tranh. Chọn lựa con đường bất bạo động không phải là một chọn lựa cho sự nhu nhược hay là chọn lựa của kẻ yếu thế, nhưng chọn lựa bất bạo động có nghĩa là tin tưởng mạnh mẽ vào sức mạnh của chân lý; chọn lựa con đường bất bạo động, và không trả thù là sự am hiểu thấu đáo và lòng tin tưởng rất lớn nơi khả năng yêu thương và được yêu thương tận đáy thâm sâu của mỗi con người; chọn lựa con đường yêu thương hòa bình đòi hỏi sự kiên nhẫn, chấp nhận chịu thua thiệt, bị đàn ác…nhưng có thể mở ra một chuyển đổi mới cho một trật tự mới. Chính sự tha thứ sẽ giải phóng con người, còn nếu nuôi lòng hận thù báo oán thì con người sẽ chuốc lấy sự đau khổ: “ai dùng gươm sẽ chết vì gươm”. Đó là một chân lý! Quả vậy, học biết yêu thương, tha thứ và hơn nữa là cầu nguyện cho kẻ thù là điều  chắc chắn không đơn giản, nhưng không có nghĩa là không làm được. Đức Giê-su đã làm điều đó và cũng nhiều môn đệ của Đức Giê-su đã noi theo vì những lý do sau:

- Nếu chúng ta chỉ yêu những người yêu mình thì cũng có hơn gì dân ngoại và những người tội lỗi, họ cũng làm được và làm tốt hơn nữa là khác. Chúa Giêsu trên thập giá đã KÊU XIN CHÚA CHA tha thứ cho người đóng đinh mình, thánh Têphanô khi bị ném đá cũng CẦU XIN CHÚA tha thứ cho những kẻ bách hại… Đến lượt chúng ta là những Kitô hữu, chúng ta giống Chúa và khác với người ngoại chính là việc yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho họ. 

- Cá tính của con người thật khó để yêu kẻ thù, ngay việc tha thứ và không trả thù đã là cao thượng lắm rồi, đàng này Chúa còn đòi hỏi chúng ta bước thêm một bước cao hơn nữa lên đỉnh hoàn thiện là YÊU KẺ THÙ và CẦU NGUYỆN CHO HỌ. Thật ra, dù khó, nhưng lại là một phương thế tuyệt hảo nhất có thể hoá giải được những mâu thuẫn giữa người với người. Vì khi, cứ tìm cách trả thù nhau thì thù hận càng ngày càng chồng chất từ đời cha sang con đời cháu và cả những dòng tộc trả thù đến trường kỳ. Nếu tôi trả thù được anh thì con anh tìm cách trả thù tôi và cứ như thế mãi mãi. Còn khi lấy ân để trả thù thì không những thù được hoá giải mà còn dễ nên bạn hữu của nhau và làm gương cho hậu thế.

- Bởi khi tha thứ là lúc được thứ tha. Mang trong mình sự hận thù, thì chính ta khổ trước, ăn không ngon ngủ không yên vì tức giận ấm ức, trằn trọc nghĩ kế trả đũa… Nhưng khi ta tha thứ thì không phải lo nghĩ gì và tâm hồn thanh thản, nhất là khi ta tha thứ thì ta không còn kẻ thù mà lại được bạn hữu. Tha thứ lại là một cách trả thù ngọt ngào nhất mà đối phương không ngờ, và làm cho chính đối phương dằn vặt vì nhận ra chính họ sai khi xúc phạm đến một người tốt, cuối cùng làm cho đối phương cảm kích và thay đổi thái độ. 

- Lại nữa, khi sự tha thứ trong tương quan giữa người với người được thực hiện, lại chính là tiêu chuẩn Chúa xét công trạng cho chúng ta đáng được ân thưởng Nước Trời. Vì: “Anh em đừng xét đoán để khỏi bị đoán xét, đừng kết án để khỏi bị Thiên Chúa tuyên án…” Lỗi lầm giữa chúng ta với nhau chẳng là gì so với lỗi phạm giữa chúng ta với Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa đã ngàn lần tha thứ cho chúng ta thì đến lượt chúng ta cũng phải tha thứ cho nhau. Chúa cho mưa xuống trên người lành cũng như kẻ dữ, thì tại sao chúng ta phải phân biệt thương ai ghét ai? 

Biết bao lần trong cuộc sống chúng ta tích chứa hận thù ghen ghét, gây thù oán với người khác để rồi lạc sâu vào vòng luẩn quẩn dối gian. Chúng ta dễ dàng đóng khung người khác trong những thành kiến cá nhân. Chúng ta dễ dàng nhìn thấy cái rác trong mắt người khác, dễ phân biệt kỳ thị và đẩy họ ra khỏi mối bận tâm của ta. Nếu hận thù chia rẽ làm trái tim chúng ta khép lại trước những nhu cầu của người khác thì tha thứ là lắng nghe và cảm thông, mở ra cho họ con đường sống hạnh phúc. Vì thế, tha thứ chính là tột đỉnh của yêu thương. Sống tâm tình của Mùa Chay, chúng ta còn được mời gọi dành ra những giây phút thinh lặng để cầu nguyện, nhìn nhận hành vi thái độ của mình đối với Chúa và tha nhân. Đồng thời chúng ta cũng ra đi chia sẻ cho tha nhân tình yêu thương và sự cảm thông nâng đỡ. Thiên Chúa luôn lắng nghe lời cầu khẩn của chúng ta, lẽ nào chúng ta lại thờ ơ với những nhu cầu của tha nhân. 

******

Lạy Chúa Giêsu là nguồn cội của tình yêu, xin cho chúng con biết đón nhận người khác với tất cả những giới hạn của họ, tìm thấy hình ảnh của Chúa nơi mọi người nhất là những ai bé nhỏ nghèo hèn. Lạy Chúa Giêsu, tình yêu Chúa luôn bao trùm phủ kín thân phận con người, trái tim Chúa luôn rộng mở để ôm trọn những tâm hồn yếu đuối, quảng đại thứ tha cho những ai lầm lỗi, xin cho chúng con mỗi ngày cảm nghiệm sâu xa hơn tình yêu của Chúa vì chỉ có Chúa mới đem lại cho chúng con nguồn tình yêu và hạnh phúc đích thực. Amen.

Thứ Năm, 22 tháng 2, 2018

THỨ SÁU TUẦN I MÙA CHAY


Vậy, nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình. (Mt 5, 23-24)

Mùa Chay là thời gian giúp chúng ta sám hối ăn năn và canh tân đời sống. Bài Tin Mừng hôm nay nằm trong phần mà Chúa Giêsu giải thích về sự kiện toàn lề luật. Mở đầu là một lời mời gọi các môn đệ và “dân mới” phải công chính hơn các kinh sư, không phải xét theo tiêu chí luân lý đạo đức, nhưng đòi hỏi phải gắn bó với Chúa và đặt sự công chính trên nền tảng là chính Người, thay vì chỉ hài lòng với sự công chính theo kiểu các kinh sư, tức là sự công chính dựa vào việc tuân giữ Luật Môsê. Chúa Giêsu không dạy chúng ta bãi bỏ luật nhưng mặc cho luật một tinh thần mới, nghĩa là vượt qua sự giữ luật cách tiêu cực để thi hành cách tích cực trong Chúa Kitô: giữ luật không vì sự bó buộc phải làm mà là với cả sự tự do muốn làm vì lòng yêu mến Chúa và tha nhân, biến luật từ việc kìm hãm bản thân thành sự thanh thoát thánh hoá bản thân, giữ luật không dừng lại ở sự thể hiện ở ngoài mà là cả một tâm hồn ngay thẳng và trong sạch.

- Về vấn đề giết người: Luật Môsê quy định kẻ giết người phải bị đem ra toà xử, và tuỳ nghi luật lấy lại sự công bằng đúng sai xét về mặt xã hội và được áp dụng mắt đền mắt răng đền răng khi phạm nhân đã hành động sai. Sự kiện toàn của luật Tin Mừng không chỉ dừng lại ở hành động cụ thể tay chân mới là tội, mà ngay cả việc giận hờn mắng nhiếc nhau đã xứng bị đem ra hội đồng và đáng phải sa hoả ngục rồi. Thật vậy, giết nhau không chỉ dừng lại ở thể xác, nhưng bằng lời lẽ và hiểm kế thâm độc còn đáng sợ hơn biết chừng nào…

- Sự kiện toàn không chỉ dừng lại ở tính tương quan con người, mà là thành tương quan đối với Thiên Chúa, xúc phạm đến nhau tức là xúc phạm đến Thiên Chúa và xứng đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt.

- Tính tương quan chiều dọc với Thiên Chúa lại lệ thuộc nơi tương quan với đồng loại. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta khi dâng lễ mà thấy mình còn bất hòa với ai thì để của lễ đó mà lo đi làm hoà trước đã… Việc dâng hiến lễ lên Thiên Chúa là việc thờ phượng làm đẹp lòng Chúa nhất, Chúa ưa thích nhất. Thế nhưng, nếu con người có điều gì bất hòa, thì cứ để của lễ trên bàn thờ mà đi làm hòa với nhau. Vì nếu đang bất hòa với nhau, mà không biết tha thứ cho nhau, thì việc dâng lễ vật nào có ích gì. Chúa muốn nhấn mạnh đến tinh thần hòa bình trong cộng đồng, và thái độ nhân từ, tha thứ cho nhau những lỗi lầm thiếu sót. Thật vậy, tha thứ là điều kiện để được thông hiệp với Thiên Chúa, và việc dâng Thánh lễ, kèm theo những lời cầu xin của chúng ta dâng lên Thiên Chúa, mới đáng được Chúa thương chấp nhận và ban ơn.

-Hãy giải quyết với nhau khi còn dọc đường, đừng để khi đến toà rồi thì đã muộn. Cùng trong một ý tưởng trên, Chúa Giêsu nhắn nhủ chúng ta, bao lâu chúng ta còn thời giờ (trong thời đại chúng ta đang sống), hãy lo giao hoà với Chúa, với anh em và lo canh tân đời sống, đừng để khi phải ra trước toà chung thẩm, chúng ta không còn cơ hội để sửa sai nữa, và chúng ta sẽ phải đền trả nơi luyện tội cho tới khi đủ số đủ ngày (đồng kẽm cuối cùng). Thật ra, tha thứ không phải là điều dễ. Nhưng hôm nay, Chúa Giêsu cho chúng ta biết đó lại là điều kiện để tôn vinh Thiên Chúa một cách xứng đáng nhất. Bởi vì, không thể đến với Chúa mà lòng còn ngổn ngang những tức giận, ghen tương, đố kỵ. Chúng ta không thể thực sự kính Chúa, nếu lòng thờ kính ấy không cắm rễ trong sự giao hòa với anh em. Mọi nghi lễ đạo đức sẽ trở nên vô nghĩa và lố bịch nếu hòa bình không ngự trị giữa những người cử hành. Nhiều người cảm thấy khô khan, nguội lạnh trong đời sống đạo đức, cảm thấy mình xa cách Thiên Chúa mà không ngờ rằng họ đang bị cản trở bởi bức tường bất hòa, ghen tương, chia rẽ do chính họ dựng lên. Cho nên, Ngài khuyên chúng ta hãy khiêm tốn và can đảm đi bước trước trong việc hòa giải. Trở nên khí cụ của bình an và yêu thương trong môi trường mình đang sống.

TÓM LẠI: Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta duyệt xét lại thái độ sống của mỗi người, xem chúng ta có biết chu toàn Luật Chúa dạy là sống yêu thương nhân từ, tôn trọng phẩm giá của nhau, tha thứ cho nhau, và xây dựng hòa bình trong đời sống gia đình và cộng đoàn. Quả vậy, mùa chay là thời gian chúng ta đến gần Chúa và cũng là dịp chúng ta đến gần anh chị em của mình hơn trong cảm thông, tha thứ và thành tâm kiến tạo tình huynh đệ. Ước gì mỗi người chúng ta biết nhìn nhận sự bất toàn của mình để khiêm tốn sống giữa anh chị em và cũng biết đón nhận anh em trong tinh thần cảm thông và tha thứ. Xin cho mỗi người chúng ta luôn xác tín: Loại bỏ người khác là loại bỏ chính Chúa, vì “mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là làm cho chính Ta”.  

*********

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết vâng theo lời dạy của Chúa, để hân hoan giữ luật Chúa và Hội Thánh truyền trong tinh thần yêu mến và liên kết trong Người, hầu cho luật không còn là gánh nặng, nhưng giúp chúng con nên giống Chúa hơn. Amen.

Thứ Tư, 21 tháng 2, 2018

LỄ LẬP TÔNG TÒA THÁNH PHÊ-RÔ


“Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời” (Mt 16,19).

Gần đây có một số anh chị em Tin Lành (quá khích) lên án rằng, Giáo Hội Công Giáo lập ra một cái lễ để ăn mừng một cái ngai và để tôn thờ nó như ham thích quyền lực. Không phải thế, Giáo Hội Công Giáo mừng lễ này như là một sự kiện nhớ về nguồn gốc việc thánh Phêrô được Chúa Giêsu chọn làm người đứng đầu săn sóc Giáo Hội chiến đấu và là nơi nối kết sự hiệp nhất bằng mối dây liên kết đức tin. Giáo Hội cũng mừng lễ này nhằm nói lên lòng tôn kính với quyền tối thượng của đấng kế vị thánh Phêrô, tính duy nhất và tông truyền của Giáo Hội, đồng thời mời gọi con cái Giáo Hội khắp nơi hiệp thông cầu nguyện cho Đức Thánh Cha đương nhiệm. Chung quy lại, ngai toà Phêrô nói lên sự kiên vững và quyền bính Chúa ban cho Giáo Hội của Người. Như vậy, hôm nay chúng ta mừng tông tòa thánh Phêrô, đối tượng không phải là chiếc ghế, mà là việc Chúa chọn gọi Phêrô cầm giữ chức vụ giáo huấn trên toàn Hội Thánh Đó cũng là nội dung của bài Tin Mừng hôm nay.

Thánh Matthêu kể lại việc Chúa Giêsu trao quyền mục tử tối cao cho thánh Phêrô để chăn dắt đoàn chiên - lãnh đạo Giáo Hội hoàn vũ - sau khi nghe lời tuyên xưng thật đúng đắn của thánh nhân. Điều này cho thấy chỉ có ở nơi Giáo Hội mới có lời tuyên xưng đúng đắn nhất về thiên tính của Đức Giêsu Kitô, vì Giáo Hội đã sống với Người và được mặc khải từ Thiên Chúa. Thật vậy, Chúa đã tin tưởng thánh Phêrô, trao cho người quyền hành và trách nhiệm để hướng dẫn Giáo Hội trên trần gian: “Thầy sẽ trao cho con chìa khóa nước Trời; sự gì con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc; và sự gì con cởi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở.”(x. Mt 16, 19) . Đây là một quyền hành thật cả thể. Vì bản chất của quyền hành ở đây theo từ ngữ chuyên biệt trong tiếng Do-thái có thể chỉ đến việc cầm buộc ma quỉ trong khi trừ quỉ, trong việc hành luật liên quan đến vạ tuyệt thông và trong những vấn đề phán quyết đức tin và luân lý. Việc Chúa Giêsu trao chìa khoá Nước Trời cho thánh Phêrô cũng được hiểu như là biểu tượng Giáo Hội gìn giữ kho tàng ơn thánh và ơn cứu độ được đem đến qua Giáo Hội. Quyền này chỉ có nơi Chúa Giêsu, nhưng Người đã ban lại cho Giáo Hội qua quyền bính của vị đại diện Người. Ơn Cứu Độ từ Đức Kitô qua Giáo Hội của Người, bởi chỉ có Giáo Hội mới được mặc khải tròn đầy của Chúa Cha về Chúa Kitô (x.Mt 16,17), và chỉ có Giáo Hội mới nhận biết đúng đắn nhất về Chúa Kitô: Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16). Theo nghĩa rộng, chìa khóa Nước Trời còn là hạt giống đức tin từ ngày lãnh nhận làn nước Bí Tích Rửa Tội giúp mọi Kitô hữu mở cửa bước vào kho tàng ân đức của Chúa nơi các bí tích. Sự đóng hay mở phụ thuộc vào việc bác ái hay khép kín của lòng người.

Hôm nay, Lời Chúa cho chúng ta biết 3 mức độ theo Chúa:

Mức độ 1 là mức độ của dân chúng: Thấy việc Chúa làm và nghe Chúa giảng mà không suy nghĩ gì thêm thì chỉ coi Chúa là một ngôn sứ nào đó mà thôi.

Mức độ 2 là mức độ của Phêrô: Được ơn Chúa soi sáng để tuyên xưng danh Chúa, nhưng nếu không có sự hợp tác của bản thân con người là “bước theo” Chúa thì vẫn có thể phản đối Chúa và cản bước Ngài.

Mức độ 3 là mức độ mà Chúa Giêsu đòi hỏi: Hiểu biết Chúa cộng thêm sự dấn thân từ bỏ và vác thập giá theo Ngài.

Như vậy, có một câu hỏi được đặt ra cho chúng ta: “Tôi đang ở mức độ nào?”. Tôi chỉ coi Chúa như là một ngôn sứ, cho nên tôi chỉ đến với Ngài để xin ơn mà thôi. Nếu tôi không được đáp ứng thì tôi sẽ bỏ Ngài? Hay miệng tôi cũng tuyên xưng danh Chúa, cũng cao rao Ngài là lẽ sống đời tôi nhưng tôi lại ngại  khó trốn khổ? Hay tôi sẵn sàng từ bỏ những vinh quang trần thế, từ bỏ những cám dỗ thấp hèn ngược lại với thập giá Đức Kitô, đón nhận thập giá của chính Đức Kitô để cùng được vinh quang với Ngài ? Chúng ta hãy trả lời cho Chúa câu hỏi này và dâng lên Ngài cùng với của lễ trên bàn thờ hôm nay là chính lòng khao khát và quyết tâm bước theo Đức Kitô cùng với thập giá và vinh quang của Ngài.

******

Lạy Chúa, Chúa đã xây dựng Giáo Hội trên nền đá là thánh Phêrô, Chúa cũng trao cho các đấng kế vị thánh Phêrô quyền bảo vệ đức tin, mối dây hiệp nhất và hướng dẫn đoàn chiên Chúa. Xin cho mọi người chúng con luôn biết quy phục Đức Thánh Cha, nhiệt thành xây dựng và làm phát triển Giáo Hội bằng đời sống chứng nhân theo phận vụ của mình, để Nước Chúa ngày một lan rộng khắp nơi. Amen.

Thứ Ba, 20 tháng 2, 2018

THỨ TƯ TUẦN I MÙA CHAY

“Thế hệ này là một thế hệ gian ác; chúng xin dấu lạ. Nhưng chúng sẽ không được thấy dấu lạ nào, ngoài dấu lạ ông Giô-na.” (Lc 11,20)

Người ta, có khi cả chính chúng ta nữa, thường nghĩ rằng, khi thấy điều lạ lùng thì sẽ tin. Nhưng kinh nghiệm thực tế cho chúng ta biết, nhìn thấy không tất yếu dẫn đến lòng tin: Con cái Israel chứng kiến mười dấu lạ, nhưng vừa ra khỏi Ai Cập gặp thách đố đã kêu: “Bên Ai Cập không có đủ mồ chôn hay sao, mà ông lại đưa chúng tôi vào chết trong sa mạc?”, Thiên Chúa đã làm dấu lạ lớn hơn nữa cho họ, đó là mở đường đi ngay trong lòng biển cả (x. Tv 77, 20-21). Nhưng khi vừa đi qua Biển Đỏ khô chân, vào sa mạc thiếu nước, họ tiếp tục kêu; và sẽ còn kêu hoài, mỗi khi gặp khó khăn thử thách. Cũng vậy, các vị kinh sư và Pha-ri-sêu chứng kiến Đức Giê-su làm dấu lạ, nhưng họ lại nói: đó là nhờ tướng quỉ Bêendêbun; họ chứng kiến Ngài chữa lành, thì họ dựa vào lề luật để lên án Chúa. Dưới chân Thập Giá, họ vẫn cứ đòi dấu lạ: “Xuống khỏi Thập Giá đi, để chúng ta thấy, chúng ta tin”. Hơn thế nữa, dấu lạ không tất yếu dẫn đến lòng tin, vì dấu lạ tự nó rất khó xác minh; hơn nữa, nếu có dấu lạ thực sự, thì dấu lạ chỉ xảy ra một lần hay vài lần, tại một nơi và trong một thời điểm nhất định. Bởi vì, chẳng lẽ, ngày nào Chúa cũng phải làm dấu lạ cho chúng ta tin? Trong khi tin, là tin ở mọi nơi và mọi lúc, tin suốt đời; tin là một quà tặng, là đặt đời mình vào tay người khác, vào tay người bạn đời, vào tay Hội Dòng, vào bàn tay của Chúa; tin những khi có dấu lạ, và tin cả khi không có dấu lạ, khi đầy khó khăn thử thách, như lời Thánh Vịnh nói: “Tôi đã tin cả khi mình đã nói: ôi nhục nhã ê chề”. Và như chúng ta có kinh nghiệm, những ngày không có dấu lạ, những ngày bình thường, những ngày thử thách và đau khổ mới là nhiều trong cuộc sống của chúng ta. Nhưng kinh nghiệm đức tin cũng cho chúng ta thấy rằng, khi tin rồi, chúng ta sẽ có một tâm hồn biết chiêm ngắm, nhận thấy cái gì cũng lạ.

Bài Tin Mừng hôm nay là một trong những cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và người Do Thái. Cuộc chạm trán xảy ra này được Thánh Sử Luca đặt vào chương IV nói về việc Đức Giêsu lên Giêrusalem. Trong hành trình lên Giêrusalem, người Do Thái đòi Chúa Giêsu làm một dấu lạ từ trời (x. Lc 11, 16), vì họ quan niệm dấu lạ là những kỳ công Thiên Chúa thực hiện như trong thời Môsê và thời ngôn sứ Êlia. Ở đây Chúa Giêsu nói về dấu lạ của ngôn sứ Giôna, một dấu lạ đã xảy ra trong thời Cựu ước. Ngay câu đầu của bài Tin Mừng, chúng ta đã thấy mục đích và đối tượng mà Chúa Giêsu nói về dấu lạ ngôn sứ Giôna. Có một đám đông người Do Thái, họ tụ họp đông đảo quanh Chúa Giêsu. Chúa Giêsu gọi họ là “Thế hệ gian ác”. Họ vây quanh Chúa Giêsu chỉ để xin một dấu lạ. Nhưng Chúa Giêsu khẳng định : họ sẽ không thấy một dấu lạ nào khác ngoài dấu lạ ngôn Giôna. Người dân thành Ninive đã đón nhận lời rao giảng của tiên tri Giôna bằng việc sám hối ăn năn, còn nữ hoàng Phương Nam đã bỏ việc triều đình, không ngại đường xa để đến lắng nghe sự khôn ngoan của vua Salomon. (x. Lc 11, 30-31) Còn chúng ta thì sao? cho dù từ trong sâu thẳm vẫn tin có Thiên Chúa, vẫn đủ khôn ngoan để phân định điều tốt điều xấu, điều nên làm hay không nên làm, nhưng quả cấm vẫn hái. Vẫn khước từ lời kêu gọi sám hối khi ngại tuân giữ, hoặc không muốn dứt bỏ một thói quen, một đam mê xấu nào đó trong những điều rao giảng của Chúa Giêsu hoặc của Giáo hội Ngài. Làm điều xấu vẫn thấy hổ thẹn, nhưng nhiều người vì ham lợi lộc vật chất, ham thú vui mau qua vẫn cố tình giả điếc làm ngơ để được sống theo đam mê xác thịt của mình. Nhiều người vẫn không chế ngự được bản thân, nên vẫn sa đi ngã lại trong những tội lỗi của đam mê lầm lạc. Lạy Chúa Giêsu, trong tình yêu nhân loại, con thấy không gì đau khổ cho bằng nghi ngờ và từ chối tình yêu của nhau. Và từ đó con hiểu được phần nào Chúa rất khổ tâm vì con lòng chai dạ đá. Chúa yêu thương con và đã hiến trọn cuộc đời của Chúa để biểu lộ tình yêu của Chúa Cha đối với con. Tin Mừng của Chúa, Lòng Thương Xót tha thứ của Chúa, tình yêu Chúa rong ruổi đi tìm những con chiên lạc và bênh vực an ủi những kẻ khổ đau bé nhỏ, cuối cùng là sự hy sinh hiến mạng sống vì người mình yêu. Tất cả đều là lời mời gọi, là dấu chỉ biểu lộ tình yêu Chúa dành cho con. Thế mà lạy Chúa, con chưa nhận ra lời mời gọi của tình yêu. Con vẫn khép lòng và nhắm mắt như những người Do Thái xưa. Xin cho mỗi người chúng ta biết nghe theo lời Chúa dạy mà ăn năn sám hối tội lỗi, trở về với Chúa trong mùa chay thánh này, để khỏi bị Chúa quở phạt, mà được Chúa thương tha thứ cứu rỗi. Lạy Chúa, đối với những người thực tình yêu mến, tất cả đều có ý nghĩa, mọi biến cố đều là lời mời gọi, mọi sự kiện đều là tiếng nói. Đã bao lần Chúa dùng lời Tin Mừng, lời giáo huấn của Hội thánh, lời của cha mẹ, con cái, anh chị em, để mời gọi con. Đã bao lần Chúa để xảy đến cho con những biến cố vui buồn sướng khổ để nhắc bảo con, nhưng con chẳng muốn thấy, chẳng thèm nghe, mà chỉ đổ xô chạy tìm những phép lạ hay những tin giật gân của dư luận. Lạy chúa, nếu con thiếu tình yêu, thì bao nhiêu dấu lạ cũng chẳng đủ cho con. Xin Chúa ban cho con một tấm lòng thành để con đón nhận Chúa và tin yêu Chúa. Xin Chúa cho con được thật tình yêu Chúa, một tình yêu.

*******

Lạy Chúa, trong cuộc sống chúng con hiện nay, có biết bao lần chúng con “bưng tai, bịt mắt” trước Lời Chúa, trước những biến có dấu chỉ của thời đại. Chúng con chỉ lo sợ lúc đó, sau đấy lại “quay về đường cũ”. Vì thế, Giáo Hội là người mẹ khôn ngoan đã cho cử hành Mùa Chay hàng năm, để chúng con nhận ra con người yếu đuối, tội lỗi mà ăn năn trở về với Chúa. Xin cho chúng con biết sám hối thực tâm, biết nhận ra đâu là ý Chúa muốn chúng con thực hành, và nhất là biết nhận ra và suy phục Đức Giêsu là Thiên Chúa và là Đấng Cứu độ chúng con. Amen.

Thứ Hai, 19 tháng 2, 2018

THỨ BA TUẦN I MÙA CHAY


Vậy, anh em hãy cầu nguyện như thế này: Lạy Cha chúng con là Đấng ngự trên trời, xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển,  triều đại Cha mau đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. (Mt 6, 9-10)

Mùa chay - mùa của tĩnh lặng và sám hối, mùa của sự trở về của những đứa con hoang đàng. Sau một thời gian đi hoang xa cách Cha, xa nhà Cha, đứa con đã cảm nghiệm, đã ngộ ra được hạnh phúc mà mình đánh mất ở bên cha, ở trong nhà cha….Bản kinh lạy Cha hôm nay Đức Giê-su dạy mỗi người chúng ta dùng để trò chuyện với Cha trên trời đã cho chúng ta cảm nghiệm hết hạnh phúc được làm con của Cha thật quá sức tưởng tượng, vượt tầm trí khôn, nhưng đồng thời là một hạnh phúc có thật dành cho chúng ta nhờ Đức Giê-su Ki-tô Đấng cứu chuộc chúng ta.

Có câu chuyện kể rằng: Bên một sườn đồi, có ngôi làng nhỏ đang phải gánh chịu nạn hạn hán kéo dài. Đã qua mùa khô từ lâu mà trời không hề có một giọt mưa. Mặt trời tỏa sức nóng như thiêu đốt vạn vật. Mặt đất bắt đầu nứt nẻ khiến bao cánh đồng lương thực và hoa màu héo khô. Người dân trong làng buồn bã, lo âu trước dấu hiệu của một mùa thu hoạch thất bại. Họ lo sợ cuộc sống sẽ bị đe dọa nếu không có nước để dùng. Không còn cách nào khác, mọi người bàn nhau cùng đi cầu nguyện với hy vọng Chúa Trời thương tình đổ mưa xuống. Tối hôm đó, tất cả dân làng đến nhà thờ như đã hẹn. Vì ít khi họp mặt đông đủ nên mọi người tay bắt mặt mừng hỏi thăm nhau. Họ say sưa, mải mê trò chuyện đến nỗi quên cầu nguyện. Vị cha xứ cũng quỳ gối cầu nguyện. Bỗng cha chú ý đến một bé gái quỳ ngay hàng ghế đầu tiên. Cô bé đang cầu nguyện một cách sốt sắng giữa đám đông ồn ào. Ngay cạnh cô bé là một chiếc dù màu đỏ, chiếc dù duy nhất xuất hiện trong nhà thờ. Buổi cầu nguyện kết thúc trong sự nôn nóng của mọi người. Khi họ đang vội vàng chuẩn bị ra về thì lạ thay một cơn mưa rào đổ xuống. Tất cả đều hò reo, vui mừng vì bao trông ngóng suốt thời gian qua cuối cùng đã trở thành hiện thực.

Tâm tình cầu nguyện của cô bé thật đáng quý. Cô cầu nguyện với tất cả sự khẩn thiết và lòng tin tưởng mãnh liệt. Tất cả mọi người đều đến nhà thờ để cầu nguyện, nhưng chỉ có mỗi cô bé là tin Chúa sẽ nhận lời cầu nguyện của mình nên cô đã mang theo chiếc dù để che mưa. Câu chuyện trên gợi lên cho chúng ta một suy nghĩ, đôi lúc chúng ta cũng cầu nguyện một cách máy móc mà thiếu lòng tin và sự khao khát thực sự. Vì thế chúng ta than phiền Chúa không lắng nghe, không ban những điều chúng ta xin. Thật ra trước khi cầu nguyện, Thiên Chúa là Cha nhân lành biết rõ chúng ta cần gì và muốn gì. Người thấu suốt hết mọi ý nghĩ và ước muốn thâm sâu của con người. Thật vậy, cầu nguyện không phải là cuộc trao đổi cầu xin và ban cho, nhưng là cuộc gặp gỡ thân mật giữa ta với Thiên Chúa, là phút lắng đọng lòng mình để lắng nghe lời thì thầm yêu thương. Hãy xếp lại những cuộc gặp gỡ với tạo vật để tiến sâu vào mối tương giao linh thánh với Thiên Chúa. Trong cuộc hò hẹn này, ta không cần phải lải nhải như dân ngoại, đơn giản chỉ mở lòng ra và lắng nghe tiếng Chúa. Cầu nguyện không phải để bắt Chúa phải thực hiện theo những gì ta “lập trình” nhưng là để cho cho danh thánh Cha vinh hiển, triều đại Cha mau đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”.

TÓM LẠI: cầu nguyện chính là sống niềm tin vào Thiên Chúa, là sống mối tương quan thân mật của người con thơ trong vòng tay yêu thương chở che của cha mẹ mình. Thật ra, không phải chúng ta cầu nguyện mà do ơn soi sáng thúc đẩy của Chúa Thánh Thần khiến chúng ta dám cất tiếng thưa lên Abba – Cha ơi. Để lời cầu nguyện được Chúa nhận lời, chúng ta phải có tâm tình phó thác, buông lỏng cuộc đời mình cho sự dẫn dắt của Thiên Chúa. Cầu nguyện là con đường mở ra cho chúng ta niềm hy vọng mới, được sống bình an giữa cuộc đời đầy những khó khăn và lo âu, giữa những đổi thay và bất trắc. Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI đã xác tín về điều đó như sau: “Khi không còn ai lắng nghe tôi nữa, Chúa vẫn nghe tôi. Khi tôi không còn có thể tâm sự hay kêu cầu được với ai, tôi luôn luôn có thể thưa với Chúa. Khi không còn ai giúp tôi biết xử sự thế nào trước nhu cầu hay mong đợi vượt quá khả năng hy vọng của con người, Chúa có thể giúp tôi. Dù tôi bị đắm chìm ngập lụt trong cô liêu hoàn toàn, nếu kiên tâm cầu nguyện, tôi không bao giờ phải cô đơn và thất vọng”. Thời gian Mùa Chay đặc biệt mời gọi chúng ta hãy mở lòng cho ân sủng của Chúa thấm vào tâm hồn mình. Nhờ tâm tình khiêm tốn cầu nguyện như Chúa Giêsu dạy, chúng ta cũng sẽ được biến đổi nhờ lời cầu nguyện ấy, và trở nên nhân chứng trung thành cho tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa.

*********

Lạy Chúa, chúng con luôn tự hỏi: cuộc sống con sẽ đi về đâu nếu từng ngày đời con vắng Chúa? Bao công việc con làm có ý nghĩa gì nếu lòng con xa Chúa? Bao điều con đạt được có giá trị gì nếu tâm con thiếu Chúa? Bao điều con hiểu biết có ích chi, nếu trí con ở bên ngoài Chúa? Bao điều con tìm kiếm có lợi gì nếu bản thân con không gặp Chúa? Giữa biết bao trăn trở ấy, xin cho chúng con xác tín rằng Chúa là nguồn sống và là hạnh phúc đích thực mà chúng con đang tìm kiếm. Amen.

Chủ Nhật, 18 tháng 2, 2018

THỨ HAI SAU CHÚA NHẬT I MÙA CHAY


“...Hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi... ” (Mt 25,34)

Khung cảnh bài Tin Mừng ngày hôm nay, cho chúng thấy biến cố của ngày Cánh chung, ngày chung thẩm của đời người. Kẻ lành lên Thiên đàng, được hưởng nhan Chúa. Kẻ dữ phải chịu hình phạt đời đời và không được diện kiến tôn nhan Ngài. Viễn cảnh của ngày sau hết là như vậy. Dường như sự phán xét là rõ ràng. Thế nhưng như lời kinh Vực sâu diễn tả: nếu Chúa chấp tội nào ai rỗi được. Quả vậy, lòng từ bi, xót thương của Thiên Chúa vượt thắng những yếu đuối, sa ngã nơi con người. Ngài chậm giận, giàu tình thương và lòng nhân nghĩa. Ngài từ bi với ai biết thực thi, đáp lại những điều Ngài mong muốn đợi chờ. Trước tiên là mến Chúa và sau là yêu người. Những ai được Chúa chúc phúc và ban ơn là vì họ đã thực thi trọn vẹn, đầy đủ hai vế của một thực tại ấy. Họ xứng đáng đứng bên phải tôn nhan Ngài, họ là những con chiên đã được thánh hóa, thanh tẩy và yêu thương. Khung cảnh trình thuật Tin Mừng hôm nay vừa mang vẻ oai hùng của cuộc ngự giá, vừa mang nét uy nghiêm của cuộc xét xử mà trong đó Chúa Giêsu, với trọn vương vị và vương quyền, xét xử mọi người theo một tiêu chuẩn chung là những việc họ đã làm hoặc không làm cho tha nhân. Còn những người được xét xử lại căng ra trong sự ngạc nhiên, họ không ngờ những việc ấy lại mang một giá trị đời đời, họ không nghĩ chúng góp nên số phận của họ. Đặc biệt, họ không biết Đấng hôm nay là Thẩm Phán Oai Hùng Chí Công lại đã từng hiện thân nơi những kẻ bé mọn nhất đang lả đi vì đói khát, đang bơ vơ nơi đất lạ, đang trần trụi, đang yếu đau hoặc tù tội,...Vào lúc kết thúc cuộc xét xử, nhiều người hoan reo vì vui sướng nhưng cũng có lắm kẻ oằn đau vì đã quá muộn cho một cuộc hoán cải cần thiết. Những người đã sống bác ái vỡ òa trong niềm vui vì được Vị Thẩm Phán Giêsu dành cho những lời chúc phúc, khen lao và ban thưởng như thể chính Ngài hôm nay thi ân lại cho họ. Ngược lại, những kẻ đã trót không dành cho tha nhân những hành vi của lòng xót thương và chia sẻ, sẽ nhận lấy lời nguyền rủa và phải đi vào trong lửa, trong sự dày vò và đau đớn, chia lìa và chết chóc.

Có lẽ tôi, bạn và anh chị hôm nay niệm suy đoạn Tin Mừng này sẽ cảm thấy vừa mừng vừa lo trong cùng dòng xúc cảm. Mừng vì cũng có những lần đã làm phước một cách vô tư, xuất phát từ tình người giản đơn vì thấy người anh em đang lấm lem trong phẩm giá ; lo vì hình như đã nhiều lần những toan tính ích kỷ, ganh đua, thù ghét lấn át tiếng gọi của con tim muốn hướng về đồng loại. Lại nữa, việc được vào trong hay bị loại khỏi Thánh Nhan chẳng hẳn là chuyện của ngày xưa, cũng chẳng hoàn toàn dành cho ngàn sau, mà là chuyện của hôm nay, của từng phận người. Thời Thiên Chúa thi ân không chỉ là ngày thế tận, cũng không phải là ngày kết thúc kiếp lữ khách trần gian của mỗi người. Thời ấy có thể là ở đây, lúc này, ngay sau mỗi kinh nghiệm về những gì ta đã làm cho tha nhân; có thể là trong mỗi dịp tĩnh tâm, nhận định, duyệt xét lại đời mình. Mùa Chay cũng là một thời Thiên Chúa thi ân.

Bầu khí Lễ Tro hẳn còn đó, tóc trên đầu ta có lẽ còn vương màu tro sám hối, lòng ta còn nóng hổi khao khát làm lại cuộc đời để sẵn sàng rời bỏ tội xưa nết cũ mà quay về với lối nẻo của Tin Mừng. Mùa chay là thời Thiên Chúa thi ân nếu con người biết sám hối vì số việc làm với nhãn Yêu Thương quá ít, nếu từ nay sẵn sàng làm những điều tốt nhất cho tha nhân. Tôi, bạn và anh chị, ta cùng soi đời mình, soi hồn mình dưới ánh sáng Lời Chúa hôm nay, để kiểm định xem ta đã bác ái với tha nhân thế nào ; để biết từ nay Chúa muốn ta làm điều tốt cho Chúa theo cách nào; và nhất là, để cảm thấu, hiểu sâu những phần thưởng thiêng liêng vĩnh cửu Người ban vốn tùy thuộc rất nhiều vào cách thức, nơi chốn, và mức độ của những việc ta đã làm cho anh chị em.

TÓM LẠI: Lời Chúa hôm nay hé lộ cho chúng ta bí quyết để được ngài ân thưởng khi Ngài lại đến trong vinh quang. Khi đó, Ngài sẽ qui tụ mọi người trên trái đất và tách biệt họ như tách chiên ra khỏi dê. Chiên sẽ có chỗ vinh dự bên phải Chúa, còn dê thì ở bên trái. Những người ở bên phải sẽ được lãnh ân thưởng vì đã từng quan tâm săn sóc những người đói khát, đau yếu, tù đày, rách rưới, cơ nhỡ. Chúa Giê-su nhấn mạnh: khi làm những nghĩa cử đó cho anh em mình là họ đang làm cho Chúa. Họ đã bối rối và bất ngờ vì nghĩ rằng mình chưa bao giờ thấy Chúa như thế để mà giúp đỡ. Chúa Giê-su nói rõ với họ rằng, khi họ làm điều đó cho anh chị em mình đang khốn khó là họ đang làm cho Chúa. Ngược lại, những người ở bên trái là những người không quan tâm gì đến nỗi khốn cùng của anh chị em mình, nên không được vào hưởng phúc. Qua đó, Chúa Giê-su cho biết những gì chúng ta làm hay không làm cho tha nhân ở đời này là yếu tố quyết định cho cuộc sống mai sau của chúng ta. Nếu muốn được hưởng phúc thiên đàng thì trong hiện tại, Ki-tô hữu cần ra sức yêu thương và phục vụ anh chị em mình. Thât vậy, ba việc trong Mùa Chay là ăn chay, cầu nguyện và làm phúc; xét theo tương quan là với chính mình, với Chúa và với tha nhân. Nhưng chính việc thi ân làm phúc bố thí cho đồng loại lại chính là làm cho Chúa như Chúa Giêsu đã khẳng định qua bài Tin Mừng hôm nay. Thể hiện tình liên đới qua việc làm phúc đóng vai trò quyết định cho phần rỗi chúng ta khi ra trước toà phán xét.

*******

Lạy Chúa, Chúa đã báo trước số phận của mỗi người chúng con sau khi từ giã cõi đời này là phụ thuộc vào lối sống, cách cư xử của chúng con với Chúa qua anh em. Xin cho mỗi người chúng con ý thức được điều ấy trong Mùa chay này, là một dịp chúng con ăn năn trở về để xin Tình Yêu Thiên Chúa thương xót, tha thứ và biến đổi tâm hồn chúng con. Amen.

Thứ Bảy, 17 tháng 2, 2018

CHÚA NHẬT I MÙA CHAY, NĂM B


Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng. (Mc 1, 15)

Từ thứ tư lễ tro, chúng ta đã bước vào mùa Chay thánh. Đó là thời gian 40 ngày chuẩn bị mừng lễ Phục sinh. Thông thường, chủ nhật thứ nhất mùa chay, Giáo Hội đọc lại trình thuật về việc Chúa Giê su bị cám dỗ trong sa mạc. Khác với thánh sử Mátthêu và Luca tường thuật cách chi tiết về cơn cám dỗ của Chúa Giêsu trong sa mạc, thánh sử Máccô lại chỉ giới thiệu cách vắn tắt việc Đức Giêsu bắt đầu sứ vụ có đi vào chịu cám dỗ, nhưng chỉ dừng lại ở con số thời gian chịu cám dỗ mà không nói gì về cách thức mà satan bày ra để cám dỗ Đức Giêsu. Bài Tin Mừng cho thấy sau khi Chúa Giêsu chịu phép rửa, Thánh Thần đã thúc đẩy Đức Giêsu vào sa mạc, sống trong chay tịnh và cầu nguyện để tìm ra thánh ý của Thiên Chúa muốn Người thực hiện. Thánh Marco chỉ nói lướt qua về việc Chúa chịu Satan cám dỗ, song cũng đủ cho thấy sa mạc chính là nơi để gặp gỡ Thiên Chúa, song cũng là nơi con người sẽ phải đối diện với những  cám dỗ của satan. Song Đức Giêsu đã vào sa mạc với sự hướng dẫn của Thánh Thần, và chính Thánh Thần luôn hiện diện trong cuộc đời của Đức Giêsu để thêm sức mạnh cho Ngài chọn lựa con đường cứu chuộc nhân loại bằng đau khổ thập giá, bằng vâng phục hoàn toàn thánh ý Chúa Cha.

Thật vậy, sa mạc đối với Chúa Giê su là nơi chiến đấu chống lại ma quỉ. Ngài phải chống lại các cơn cám dỗ chạy theo danh vọng, quyền lực và dùng phép lạ để giải quyết mọi vấn đề trong cuộc sống. Thật ra, tên cám dỗ không có gì để hiến cho Ngài. Tất cả chỉ là láo khoét trong các lời hứa của nó. Thế nhưng cho đến hôm nay đó vẫn luôn luôn là chiến thuật lừa dối mọi người. Thí dụ như nó làm mọi cách khiến người ta tin rằng rượu và ma túy là linh dược chữa lành tất cả những cơn lo âu; nhưng rốt cục đó là lời dối trá chỉ mang lại sự tha hóa tinh thần mà thôi. Hoặc nó làm người ta tin rằng sau khi ly dị sẽ hạnh phúc hơn,  nhưng cuối cùng chỉ là nỗi thất vọng ê chề để lại cho mọi người trong cuộc. Đằng sau những khẩu hiệu hứa hẹn đủ thứ, giải quyết mọi vấn đề còn tồn đọng trong xã hội, nhưng cuối cùng, chỉ đưa đến sự thù hằn giữa mọi tầng lớp, mọi chủng tộc. Phải nói rằng: ma quỉ làm hư hoại tất cả những gì nó chạm đến; đó là dấu vết cho thấy nó đã đi qua. Ma quỉ cũng có thể cám dỗ chúng ta nghĩ rằng sống làm con Thiên Chúa là điều vượt quá khả năng thực hiện, nên không bao giờ chúng ta có thể thành công. Từ đó, chán nản, buông xuôi, chúng ta không còn muốn cố gắng đứng lên nữa. Và một trong những cám dỗ nguy hiểm nhất mà chúng ta phải chống lại, đó là không làm gì đặc biệt để đánh dấu mùa Chay. Bốn mươi ngày có thể trôi qua như những ngày khác. Rồi không sớm thì muộn, chúng ta dễ bị lôi kéo rất nhanh theo nhịp sống quen thuộc hằng ngày, để mùa chay chỉ còn là tên gọi không để lại một dấu ấn nào cả trong cuộc sống. Và đó chính là điều khiến chúng ta phải nhớ phải bắt đầu « ngay tức khắc » mà Tin mừng hôm nay gợi ý. Hoặc là ngay bây giờ, hoặc là không bao giờ. Như Chúa Giê su, chúng ta phải lựa chọn để đáp lại thánh ý Chúa Cha. Trong một môi trường ồn ào và đầy cạnh tranh của thế giới hôm nay, chúng ta có can đảm dành những khoảnh khắc im lặng để gặp Thiên Chúa không? Đúng, chúng ta cần có sa mạc, vì Thiên Chúa không ở trong cảnh ồn ào. Tóm lại, mùa chay trước tiên là thời gian sám hối, một cuộc sống quay ngược 180 độ; sám hối, tức là quay trở về với Thiên Chúa, là điều cốt yếu của cuộc đời chúng ta. Và cũng có nghĩa là chúng ta phải xa lánh các bụt thần, các điều tầm thường khiến chúng ta bận tâm và xa cách Thiên Chúa. Sám hối là xa lánh tội lỗi và quay về với lòng nhân từ của Thiên Chúa; là mở lòng ra cho Thánh Thần hoạt động, gần giống  như một con tàu cánh buồm, không thể lướt tới nếu không có gió. Nhưng gió cũng không làm gì được nếu cánh buồm không giương lên. Đối với chúng ta cũng thế: chúng ta chỉ thực sự tiến bộ trong mùa chay này nếu chúng ta mở ra cho hành động của Chúa Thánh Thần. Sám hối là nghe vọng lại tiếng gọi nên thánh gửi đến cho mọi người.

Liền sau đó, thánh sử Máccô nói ngay đến sứ điệp đầu tiên của việc rao giảng: Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Như thế, tác giả muốn gắn liền việc giữ chay với việc canh tân đời sống và tin, cùng nghĩa là cần tin vào Thiên Chúa mới có được khả năng hoán cải đích thực. Dù không kể chi tiết, nhưng con số thời gian 40 ngày chay tịnh của Đức Giêsu vẫn được thánh sử Máccô nhắc đến, cho thấy con số tượng trưng này mang một ý nghĩa lớn trong chương trình cứu độ của Đức Giêsu: Một sự khởi đầu như Môisê hay Êlia xưa lên núi của Đức Chúa 40 ngày đêm (x.Xh 24,18; 1V 19,8). Con số 40 ngày chay tịnh là thời gian có giá trị tượng trưng cho 40 tuần thai nghén, thời gian chuẩn bị cho một cuộc sinh nở mới, mà đối với Đức Giêsu đang chuẩn bị sinh ra một nhân loại mới, một cuộc tân sáng tạo. Con số 40 còn gợi lại 40 năm trong sa mạc mà dân Israel đã ngã gục muốn quay lại với nồi thịt dưa hành, thờ bò vàng và bao lần kêu trách Thiên Chúa. Còn hôm nay cũng những cám dỗ ấy Đức Giêsu đã thắng. Việc chay tịnh bốn mươi ngày không chỉ hệ tại ở việc kiêng bớt chuyện ăn uống, mà là một sự thanh luyện thay đổi nếp sống mình, một sự ra khỏi những gì không còn thích hợp, một sự loại bỏ đường lối và quan niệm cũ... Đó mới chính là những điều thánh sử Máccô nhắm tới khi tường thuật rất súc tích việc Chúa Giêsu được Thần Khí đẩy vào sa mạc để chịu cám dỗ hôm nay. Thật vậy, Mùa Chay  nghiêm túc còn bao gồm một cố gắng nuôi dưỡng đức tin bằng việc đọc và suy niệm Tin mừng thường xuyên. Cầu nguyện và lãnh nhận các bí tích ngày nay nhiều khi mang dáng dấp một cuộc chiến thật sự. Phải chiến đấu chống lại tất cả những gì khiến chúng ta sao lãng những việc của Thiên Chúa. Tin vào Thiên Chúa không phải là điều tự nhiên mà có. Phải muốn và chọn lựa. Có như thế thì ở cuối con đường, mừng lễ Phục sinh mới thực sự có ý nghĩa. Thật vậy, mùa Chay là một cuộc leo núi cần thiết tiến về lễ Phục sinh. Bốn mươi ngày ban cho chúng ta để học yêu thương một cách mới mẻ, theo cách Đức Ki tô. Bốn mươi ngày để bước đi theo một nhịp điệu khác, để dọn dẹp, để thanh tẩy. Bốn mươi ngày để học sống !

********

Lạy Chúa, Mùa Chay thánh giúp chúng con trở về với sa mạc nội tâm, để thấy mình đang ở đâu trong đường lối Chúa. Xin cho chúng con từ bỏ những đam mê thể xác, từ bỏ cái tôi và quyết tâm chọn Chúa là gia nghiệp cuộc đời. Amen

MỒNG BA TẾT – THÁNH HOÁ CÔNG ĂN VIỆC LÀM

Hôm nay mồng ba tết, ngày truyền thống Giáo Hội Công Giáo Việt Nam cầu xin Thiên Chúa chúc lành và thánh hoá công ăn việc làm trong năm mới. Phụng vụ Lời Chúa qua bài Tin Mừng hôm nay nhắc chúng ta ý thức hơn về việc làm sinh lợi cho Thiên Chúa qua ân huệ và khả năng mà Chúa đã ban cho mỗi người chúng ta. Bài Tin Mừng hôm nay kể cho chúng ta về mối tương quan chủ và thợ: Có một ông chủ sắp đi xa liền gọi các đầy tớ đến mà trao phó tài sản của ông.  Ông chủ này quá tốt, đã tin tưởng trao hết tài sản mình cho công nhân, không đắn đo tính toán. Ông cho họ có cơ hội để lập nghiệp. Ông rất nhân đạo và biết nhìn người, ông trao cho người này năm nén, người kia ba nén, người khác một nén tùy khả năng mỗi người. Điều đó có nghĩa là ai có khả năng như thế nào thì ông chủ tạo điều kiện cho như thế, không bắt ép họ phải chịu trách nhiệm vượt quá khả năng của mình. Điều ông chờ đợi và đòi ở đầy tớ của ông, không phải là chuyện lời hay lỗ, mà là sự chăm chỉ làm việc và làm việc trong sự hăng say phấn khởi biết ơn ông. Ông không chấp nhận sự lười biếng, lười suy nghĩ tính toán, không cố gắng. Câu chuyện cho thấy khi ông chủ trở về, đã gọi đầy tớ đến để tính sổ. Người năm nén sinh lời được năm nén khác, người ba nén cũng vậy, những người này đều được ông chủ khen là những đầy tớ tốt lành và trung tín.Sự tín trung với chủ và giữ chữ tín trong công việc chính là điều khiến những người này được khen thưởng. Trái lại, sự bất tín biếng nhác, lười suy nghĩ tính toán, ù lỳ thụ động là điều không thể chấp nhận. Người lãnh một nén đã đem chôn giấu nén bạc ông chủ, vì anh đã có cái nhìn hoàn toàn sai lạc về chủ của mình. Anh phân bì cho rằng chủ mình keo kiệt tham lam, hà khắc, gặt chỗ không gieo thu nơi không phát. Anh còn mang thái độ sợ hãi thay vì yêu mến biết ơn ông chủ, nên đã chôn giấu nén bạc của chủ. Từ cái nhìn không đúng về chủ, nên anh cũng không quan tâm gì đến việc kinh doanh sinh lời vốn liếng chủ trao. Đối với ông chủ, ngay việc giữ huề vốn nguyên vẹn một nén bạc đã không thể chấp nhận, ít ra anh ta cũng phải làm lời theo lãi suất ngân hàng.

Qua thái độ của ông chủ và những người đầy tớ trong câu chuyện của Tin Mừng, Chúa Giêsu chỉ cho thấy: Thiên Chúa chính là ông chủ tốt lành, Ngài ban cho mỗi người những khả năng và tài năng khác nhau. Ngài còn tạo cho chúng ta có nhiều cơ hội để phát triển các khả năng và tài năng đó. Ngài muốn chúng ta làm việc hết mình với lờng biết ơn và yêu mến. Ngài chờ đợi chúng ta biết tận dụng thời giờ để làm lời những gì đã nhận được từ nơi Chúa. Nén bạc Chúa trao cho chúng ta hôm nay có thể là thời giờ, sức khỏe, tuổi trẻ tài năng và của cải vật chất, chúng ta phải sinh lời gấp đôi gấp ba những cái chúng ta đã nhận. Có những người Chúa ban cho nhiều cơ hội nhưng vì lười biếng hoặc chần chừ, thụ động nên đã để vuột mất cơ hội ấy. Những người khác đã nắm bắt được cơ hội và đã sinh lời cho bản thân và cho gia đình của mình.

TÓM LẠI: Thiên Chúa là Đấng Sáng Tạo, Người muốn con người cộng tác vào công trình tạo dựng của Người qua đời sống lao công, đồng thời Người ban mọi ân huệ: thời gian, sức khoẻ và tài năng cho con người, để con người hoàn thành những gì Người đã giao phó: 

- Một ông chủ đi xa trao lại cho các đầy tớ gìn giữ những nén bạc của ông. Nghĩa là khi dựng nên chúng ta, Thiên Chúa trao cho chúng ta một ân huệ tuỳ khả năng từng người, rồi Ngài ban cho chúng ta sức khoẻ, thời giờ, tài năng, để chúng ta làm sinh lợi cho Ngài.
- Người nhận năm nén hay hai nén hoặc một nén là tuỳ khả năng mà ông chủ tín nhiệm giao cho. Điều ông chủ muốn là sinh lời chứ không phải chôn giấu tiền bạc của ông chủ để chờ khi ông về trả lại. Cũng vậy, Thiên Chúa ban cho ta ơn đức tin qua Hội Thánh, chúng ta cần làm cho đức tin lớn mạnh qua việc thực thi đức ái Kitô Giáo, chứ không phải cứ lấy lý do “đạo tại tâm” rồi không làm gì cả.
- Người nhận hai nén và năm nén đã sinh lợi gấp đôi, nghĩa là những ai biết dùng ơn Chúa để hoàn thiện bản thân và mưu ích cho tha nhân, cho cộng đoàn, giáo xứ và Giáo Hội.
- Người nhận một nén đã chôn giấu đi, nghĩa là dù mang trên mình ấn tích rửa tội nhưng đã không sống đạo, đã để cho hạt giống đức tin bị chôn vùi và không sinh hoa trái gì cho đời sống thiêng liêng.
- Cái khác nhau ở chỗ là: người làm sinh lợi là người tin tưởng và yêu mến ông chủ nên đã tự nguyện làm việc nên đáng được ông chủ thưởng công; còn người sợ ông chủ và nghĩ xấu về ông chủ là người hà khắc nên đã sợ sệt đem chôn giấu nén bạc. Chúng ta cũng vậy, khi chúng ta tin tưởng và yêu mến Thiên Chúa mà sống đạo, thì tự sự yêu mến sẽ sinh hoa kết quả; còn khi chúng ta làm vì sợ Chúa phạt thì không đem lại công phúc gì.
- Cuối cùng kẻ có được cho thêm, còn kẻ không có thì ngay cả cái đang có cũng sẽ bị lấy đi, nghĩa là Chúa ban cho chúng ta sức khoẻ, tài năng, cơ hội…, nếu chúng ta không chuyên cần cố gắng trau dồi, thì tự nó sẽ thui chột đi. 

*******
Lạy Chúa, Chúa đã ban cho chúng con những ân huệ cần thiết để cộng tác với Ngài trong công trình tạo dựng. Xin Chúa ban cho chúng con được mưa thuận gió hoà và chúc lành cho mọi công việc của chúng con, để chúng con vừa có lương thực hằng ngày nuôi dưỡng thể xác, vừa để đóng góp vào sự phát triển xã hội nhân loại như lòng Chúa ước mong, lại vừa làm cho Chúa được vinh danh khi chúng con biết sử dụng sao cho ích lợi qua những ân huệ Chúa ban. Amen.