Translate

Chủ Nhật, 31 tháng 12, 2017

LỄ THÁNH MARIA ĐỨC MẸ CHÚA TRỜI

Hôm nay ngày đầu năm mới (Dương lịch), mọi người trên thế giới thêm tuổi mới, vạn vật sinh linh bước vào chu kỳ mới… Đặc biệt hôm nay, Giáo Hội cũng long trọng mừng Lễ Mẹ Maria - Mẹ Thiên Chúa, như là một sự khẳng định về vai trò của Mẹ Maria trong việc khai nguyên Kỷ Nguyên Mới, kỷ nguyên của Ơn Cứu Độ, kỷ nguyên của Sáng Tạo Mới… khi mẹ đã sinh ra Đấng Cứu Độ là Chúa Giêsu Kitô. Thật quá mầu nhiệm, làm sao suy thấu được mầu nhiệm Nhập Thể, khi cái Tuyệt Đối nằm trong sự hữu hạn, Thiên Chúa toàn năng trong hình hài một hài nhi bé bỏng… Thế nhưng, mầu nhiệm ấy, chân lý ấy lại được mặc khải cho những tâm hồn đơn sơ bé mọn như các mục đồng, được trao ban cho tâm hồn khiêm tốn và trinh khiết của Mẹ Maria. “Mẹ Maria đã ghi nhớ và suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2, 19). Đó là đặc trưng chiêm niệm của mẹ mà chúng ta cùng chiêm ngưỡng và học đòi. 

Các Sách Tin Mừng nói rất ít về Ngài, nhưng điều mà chúng ta nghe được lại rất quan trọng. Sau khi được truyền tin, Ngài đi mang tin mừng đến nhà ông Dacaria. Và Mẹ có thể nhìn thấy những gì thiên sứ nói với Mẹ được hoàn thành: Êlisabet mang thai được sáu tháng. Thánh Luca còn ghi lại một lời quan trọng: Đức Maria ghi nhớ tất cả các biến cố ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng”. Mẹ đã dùng kí ức nối kết các trang đời sống mà qua đó, Thiên Chúa đã vạch ra một con đường dẫn đưa Mẹ đến đó. Tất cả đã xảy ra rất nhanh, vì thế cần phải để giờ nghiền ngẫm, suy niệm để dâng lời tạ ơn đối với những điều kì diệu mà Thiên Chúa đã thực hiện dọc suốt lịch sử Kinh Thánh. Chúng ta cũng thế, sống trong một thế giới với nhiều biến động quay cuồng theo một nhịp độ chóng mặt, chúng ta nên dành thời gian để gợi nhớ và suy niệm các biến cố xảy ra trong tâm hồn cũng như chung quanh mình. Trước các thử thách của cuộc đời, bệnh tật, thiên tai, chiến tranh, xung đột chúng ta dễ bị nhận chìm trong buồn thảm và thất vọng. Chính sự thất vọng đó đi ngược lại với tin mừng, thậm chí là những cơn cám dỗ có nguy cơ khiến chúng ta quay lưng lại với Thiên Chúa và sứ mạng chúng ta. Đối với Đức Maria, tất cả đều ngược lại. Như những người đương thời, Mẹ đã chứng kiến biết bao nhiêu chuyện lành dữ xảy ra chung quanh, Mẹ phải phân định, tìm hiểu các biến cố để ghi nhớ những kỳ công của Thiên Chúa đã thực hiện trong chương trình cứu độ ngang qua cuộc đời mình, và nhất là cố gắng khám phá đâu là sứ mạng phải thực hiện cùng với Đức Ki tô. Chắc hẳn Mẹ chưa nắm bắt hết mọi điều khi xảy ra, vì thế Mẹ phải kiên trì cầu nguyện và tìm kiếm để biết biết điều Chúa chờ đợi nơi Mẹ, Mẹ cảm nhận mình quá bé nhỏ nhưng luôn tin tưởng vào Đấng nâng những kẻ khiêm nhu. Cùng với Mẹ Maria và bắt chước Ngài, chúng ta được mời gọi suy niệm các biến cố trong cuộc đời chúng ta. Chúng ta có cơ may thực hiện điều đó dưới ánh sáng tin mừng. Dù mọi điều xấu xa vẫn đã, đang và sẽ xảy đến, nhưng đừng bao giờ quên rằng Chúa luôn luôn ở giữa cuộc đời chúng ta và không gì có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu thương của Ngài. Niềm tin vào Đức Ki tô phục sinh phải làm cho chúng ta thay đổi cách nhìn về chính mình và về người khác. Như đối với các môn đệ làng Em maus, sự thay đổi chỉ có thể có được nếu chúng ta dành thời giờ nuôi dưỡng tâm hồn bằng Lời Chúa và Thánh Thể. Như vậy, khi cùng với Mẹ Maria chiêm ngắm Hài Nhi Giêsu, chúng ta cũng hãy học cùng Mẹ biết luôn suy niệm Lời Chúa, cưu mang Lời Chúa trong lòng, làm cho Lời Chúa lớn lên để rồi làm cho lời Chúa cũng được sinh ra cho mọi người. Thế giới ngày hôm nay sống như vắng bóng Thiên Chúa, thậm chí xem như Thiên Chúa không còn hiện hữu, thì bổn phận của các Kitô hữu phải làm cho Thiên Chúa được sinh ra cho mọi người, nghĩa là làm cho nhân loại nhận biết Thiên Chúa và ý thức sự hiện diện của Người, hầu các chuẩn mực đạo đức được tôn trọng và biết hướng tới những giá trị tinh thần và thiêng liêng để được cứu độ. Ngoài ra, sự thinh lặng chiêm niệm như là một sự đi ngược dòng chống lại sự ồn ào của những biến động xã hội, mà sự ồn ào đó đã làm cho con người không thể lắng nghe tiếng nói của Thiên Chúa và tiếng nói của lương tâm.

Bên cạnh đó, Đức Maria còn là một mẫu gương trong sinh hoạt hàng ngày. Trong đời sống vật chất, gia đình Nagiaret vẫn được coi là biểu tượng của những gia đình nghèo. Thế nhưng, trong đời sống tinh thần, tổ ấm thánh gia vẫn được coi là biểu tượng của sự kính trên nhường dưới, đối nhân xử thế, khéo léo nhẹ nhàng với tương quan lối xóm. Trong những sinh hoạt đời thường đó, hẳn Mẹ Maria phải là một mẫu mực cho chồng cho con. Mẫu mực cho chồng vì Mẹ đã cũng phải gạt đi tự ái, quên đi “sự kiện” mà thánh Giuse muốn âm thầm bỏ đi. Mẫu mực cho con vì tình mẫu tử đã giúp mẹ vượt thắng những thử thách hằng ngày để cộng tác, xây dựng và làm cho Nước Chúa mau trị đến ngay cả “trước lúc khi sinh, trong khi sinh và thậm chí ngay cả sau khi sinh Ngôi Hai Thiên Chúa”. Vượt lên trên những trắc trở đó, Mẹ đã trở nên mẫu mực của sự tin tưởng, phó thác, một mực trung thành tuyệt đối với Thánh Ý Thiên Chúa. Ngày hôm nay, khởi đầu ngày mới của một năm mới, mừng lễ Mẹ Thiên Chúa, chúng ta tin tưởng vào lời chuyển cầu của Mẹ cho thế giới chúng ta đang sống luôn được Bình An. Chúng ta cũng không quên từng người mẹ thân yêu của chúng ta. Có thể nói họ cũng là những Maria trong đời sống hàng ngày cho gia đình. 

******

Lạy Mẹ Maria - Mẹ Thiên Chúa, chúng con xin ký thác cho Mẹ. Xin Mẹ dạy chúng con biết vâng nghe Lời Con Chí Ái của Mẹ, biết cưu mang và hạ sinh Đấng Cứu Thế cho những người chúng con gặp gỡ trong đời sống hằng ngày, để đời chúng con là hiện thân của Đức Ki-tô cho thế giới hôm nay. Amen

Thứ Bảy, 30 tháng 12, 2017

LỄ THÁNH GIA


Nối dài lễ Giáng sinh, Chúa nhật hôm nay chúng ta cử hành lễ Thánh Gia, gia đình thánh gồm Chúa Giê su, Mẹ Maria và Thánh cả Giuse. Đó là một gia đình kết hợp bền vững, liên đới hoàn toàn nên một chung quanh đứa trẻ phải được bảo vệ bằng bất cứ giá nào. Vì thế, thánh lễ này trước hết nhắc chúng ta nhớ đến các gia đình phải ly tán chạy trốn các cuộc xung đột trong đất nước đang bị chiến tranh. Đó là những gia đình nạn nhân đầu tiên của những tham vọng và đối đầu chính trị. Gia đình của Chúa Giê su, mẹ Maria và thánh cả Giu se cũng phải chạy trốn. Các ngài phải trốn sang Ai cập để bảo vệ mình trước cơn điên cuồng sát nhân của vua Hêrôđê gây ra những cuộc thảm sát ở Bết lem và vùng phụ cận. Như thế, ngay từ lúc vào trần gian, Chúa Giê su đã phải nếm trải sự bất an và đau khổ. Điều đó cho thấy Đức Ki tô hoàn toàn là một con người; dù là Con Thiên Chúa, nhưng Ngài không được hưởng một ưu đãi nào. Trái lại, Ngài hoàn toàn chia sẻ thân phận con người. Tuy nhiên, gia đình thánh vẫn đứng vững trước sự thù địch; họ vẫn lớn lên và sống trong một sự hiệp thông tình yêu. Gia đình chúng ta ngày nay cũng có thể tìm được trong câu truyện này một sự khích lệ và một sức mạnh để đứng vững trong những lúc khó khăn trong đời sống của gia đình. Đức tin và lòng quảng đại của thánh Giuse và Đức Maria là một thí dụ cần được noi theo. Và biến cố không dễ dàng chút nào: chuyến ra đi bất ngờ, thời gian lưu lại trên đất khách chắc chắc đã gây ra đủ mọi vấn đề. Dù vậy, Đức Maria và thánh cả Giu se vẫn kết hợp và liên đới. Không một lời trách móc, không than van, trách móc hay chống đối nhau. Chính trong đức tin mà họ tiếp nhận chương trình của Thiên Chúa. Đối đầu với sự thù ghét, họ đã cậy dựa vào sức mạnh nơi tình yêu thương nhau.

Trong ngày lễ Thánh Gia, Giáo Hội kêu mời chúng ta suy tư nghiêm chỉnh, trở lại ý nghĩa cuộc sống gia đình và cũng đề nghị với chúng ta một mẫu gương. Đó là mẫu gương tổ ấm yêu thương của gia đình Nagiarét, gia đình của Chúa Giêsu với Mẹ Maria và Thánh Giuse. Khi nghĩ hay nói đến gia đình Nadarét, nhiều người chúng ta chỉ nghĩ đến sự vinh quang và đời sống thánh thiện của ba thành viên của gia đình ấy, mà quên bẵng đi những nỗi vất vả và khổ đau, những thử thách cam go mà ba Đấng ấy đã phải gánh chịu. Vì thế mà chúng ta không thấy được sự gần gũi và tương đồng giữa gia đình Thánh Gia và gia đình chúng ta. Nếu chỉ nhìn vào sự thánh thiện của Chúa Giêsu, Mẹ Maria và Thánh Giuse làm sao chúng ta noi gương bắt chước cho được? Nhưng nếu chúng ta nghĩ đến cảnh Thánh Giuse thấy người bạn đời của mình có thai ngoài kế hoạch của hai người hay cảnh Thánh Giuse không tìm được chỗ trọ cho Đức Maria ở Bêlem khi giờ sinh ra đã gần kề hay cảnh Con Trẻ mới sinh được đặt trong máng cỏ là chốn náu thân của đàn gia súc, hay cảnh hai ông bà đem con chạy trốn khỏi sự lùng bắt giết hại con trẻ của nhà vua thì chúng ta thấy gia đình Nadarét đã trải qua những khoảnh khắc nghiệt ngã giống như những cảnh huống đời thường của gia đình chúng ta ngày nay. Hoặc nếu chúng ta hình dung cảnh lao động vất vả của hai cha con người thợ mộc là Thánh Giuse và Chúa Giêsu trong thôn xóm nhỏ bé Nazareth thì chúng ta thấy cảnh lao động của các ngài cũng giống hệt như cảnh lao động của hàng triệu triệu con người trong xã hội chúng ta. Hoặc nếu chúng ta nghĩ đến cảnh Chúa Giêsu xuất hiện công khai, rao giảng Nước Chúa, nay đây mai đó, lang thang khắp xóm khắp làng, đi hết đầu đường xó chợ... để tìm kiếm chiên lạc và đem chúng về thì chúng ta thấy Chúa vất vả cực khổ hơn các nhà giảng đạo ngày nay bội phần. Nhất là cảnh Đức Maria đi bên cạnh Con trên đường lên Golgotha và thấy Con ngã lên ngã xuống dưới sức nặng của thập giá và rồi cảnh Mẹ đứng lặng bên chân thập giá mà Con Mẹ bị treo trên đó, thì chúng ta mới thấy cảnh ấy khủng khiếp kinh hoàng như thế nào đối với một người phụ nữ làm Mẹ. Vậy đó, cuộc sống của gia đình Thánh gia không phải là một cuộc sống bình yên, sung sướng; ngược lại, ta thấy những khó khăn cực nhọc, những đe dọa, những truân chuyên. Nhưng đó vẫn luôn là một gia đình thánh, tràn đầy hạnh phúc và tình yêu, bởi vì cuộc sống đó luôn được dẫn dắt bởi Thánh Ý Chúa; bởi vì thánh Giuse và Đức Mẹ là những người luôn sống trong ân nghĩa với Chúa. 

Nhìn vào đời sống của các gia đình thánh, đặc biệt là gia đình của Giuse và Maria, để chúng ta soi rọi lại đời sống đức tin, đời sống đạo của gia đình chúng ta. Có khi nào chúng ta tự hỏi tại sao gia đình của mình cứ lục đục hòai, hết chuyện này đến chuyện khác? Tại sao gia đình mình không được êm ấm vui vẻ như những gia đình khác? Tại sao con cái nhà mình không chăm ngoan như con cái nhà người khác? Có nhiều gia đình xây những căn nhà thật đẹp và đầy đủ tiện nghi, không thiếu thứ gì, nhưng chỉ thiếu có một điều đó là đời sống đạo đức của các thành viên và của cả gia đình, chính vì thế mà gia đình cứ lạnh lẽo, cãi vã lục đục. Dựa vào Lời Chúa hôm nay cùng với tấm gương của gia đình Thánh Gia, trước hết trách nhiệm của các bậc cha mẹ cần xem lại và nhìn thẳng vào vấn đề của gia đình mình, đừng bỏ qua những lỗ hổng trong gia đình vì từ lỗ hổng ấy mà chính mình và con cái mình sẽ bị thụt chân, cũng đừng dựa vào sư bận rộn và sự vất vả của cơm áo gạo tiền mà bỏ qua đời sống đạo đức của bản thân và gia đình. Các bậc cha mẹ sẽ phải giáo dục đời sống đức tin cho con cái bằng chính gương sống của mình: cha mẹ lười biếng thì con cái lười biếng, cha mẹ khô khan thì con cái nguội lạnh, cha mẹ bất hòa thì con cái lục đục; Ngược lại cha mẹ siêng năng thì con cái chăm chỉ, cha mẹ nhiệt thành với Chúa và giáo Hội thì con cái cũng sẽ như thế.

*******

Lạy Chúa! Xin giúp chúng con qua mẫu gương của gia đình thánh gia, biết đặt thánh ý Chúa làm quy luật duy nhất và nền tảng cho đời sống cá nhân và gia đình chúng con. Nhờ vậy, mỗi gia đình Công giáo chúng con sẽ trở nên “một Thánh gia khác”, một cộng đoàn yêu thương hiệp nhất để làm chứng về sự hiện diện đầy yêu thương của Chúa giữa thế giới hôm nay. Amen.

Thứ Sáu, 29 tháng 12, 2017

LỄ THEO NGÀY 30.12


Còn Hài Nhi ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa. (Lc 2, 40)

Bài Tin Mừng hôm nay tiếp tục câu chuyện Mẹ Maria và thánh Giuse dâng Hài Nhi Giêsu cho Thiên Chúa. Sau lời tiên tri và bài ca tụng (Nunc Dimitis) của cụ già Simêon, thì xuất hiện thêm nữ ngôn sứ Anna là một goá phụ 84 tuổi, ngày đêm đến đền thờ để cầu nguyện phụng sự Thiên Chúa.  Cũng như cụ già Simêon, nữ ngôn sứ Anna ngày đêm ăn chay cầu nguyện, và bà đã được gặp Chúa và chúc tụng Người. Hôm nay bà Anna cũng đến đền thờ, gặp thấy việc dâng Hài Nhi Giêsu, bà đã chúc tụng Chúa và nói tiên tri về Người cho những ai trông chờ ơn cứu độ. Ông Simêon và bà Anna tượng trưng cho lòng mong đợi của những kẻ công chính, mà trong suốt cuộc đời mình đã sống tuân giữ lề luật Chúa, mong mỏi và hy vọng Chúa can thiệp cứu độ của thời cánh chung. Thật vậy, Chúa Kitô trở nên niềm hy vọng và trông cậy cho tất cả mọi tạo vật. Người là sự sống và là sự sống lại viên mãn. Tất cả những ai tin vào Người, sẽ được ánh sáng ban sự sống. Những ai tiếp rước Người thì Người ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa. Chúa Kitô hôm qua, hôm nay và mãi mãi là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật.

Bà Anna là một bậc đạo hạnh. Xuất giá lúc còn trẻ,  bảy năm sau bà Anna trở thành góa phụ nhưng vẫn giữ lòng chung thủy với chồng. Bà thường xuyên giữ chay và hàng ngày chìm sâu trong cầu nguyện nơi đền thờ Giêrusalem. Bà Anna đã vượt qua những điều luật khắt khe của Do thái không cho phụ nữ lưu lại trong đền thờ, nhờ thế bà đã gặp được Đấng Cứu Độ. Bà mạnh dạn nói về Hài Nhi cho hết những ai đang mong chờ ngày Thiên Chúa cứu chuộc Giêrusalem. Hài Nhi Giêsu chính là Đấng Mêsia, Người sẽ nối lại mối thân tình giữa Thiên Chúa và loài người. Cuộc gặp gỡ có vẻ như sự tình cờ bất chợt nhưng với thánh sử Luca thì đây là biến cố vô cùng quan trọng nói lên cuộc gặp gỡ giữa Thiên Chúa với dân của Người. Sau cuộc gặp gỡ thân tình giữa Hài Nhi Giêsu, cả ông Simêon và bà Anna đều đã được chứng nghiệm về Đấng Cứu Độ. Thật vậy, Chúa Kitô trở nên niềm hy vọng và trông cậy cho tất cả mọi tạo vật. Người là sự sống và là sự sống lại viên mãn. Tất cả những ai tin vào Người, sẽ được ánh sáng ban sự sống. Những ai tiếp rước Người thì Người ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa. Chúa Kitô hôm qua, hôm nay và mãi mãi là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa thật. Tóm lại, bà Anna là hình ảnh đặc thù “người nghèo của Yavê”, là những con người không có nguồn tài nguyên nào khác hơn là lòng tin cậy và hy vọng vào Thiên Chúa và là biểu thị nói lên tâm hồn đích thực của dân Chúa, tất cả hy vọng của Israel vào Đấng Cứu Thế và chỉ có gia đình mình là chính Thiên Chúa. Bà Anna là người góa bụa và kém may mắn. Thế nhưng, tính cách goá bụa và hiếm hoi con cái của bà giờ đây không còn là một điều tủi nhục nữa, nhưng các giá trị của cuộc sống hoàn toàn dâng hiến mình để phục vụ Chúa và cộng đồng dân Chúa trong Đền Thờ, với lời cầu nguyện không ngừng, giờ đây được Chúa cho nếm trước hạnh phúc hân hoan mà Người sẽ dành cho bà: đôi tay của bà chưa bao giờ được diễm phúc ẵm lấy đứa con của mình, giờ đây bên Mẹ Maria bà được ôm ấp Con Thiên Chúa. Chúa là gia đình của bà, nhà của Thiên Chúa là ngôi nhà duy nhất của bà, sống thân tình với Thiên Chúa là cuộc sống mong đợi và là niềm an ủi thực sự của bà. Như thế, qua hình ảnh của bà Anna, cho chúng ta một điều chắc chắn, là muốn được gặp Chúa và được biến đổi đời sống, con người cần có một đời sống thánh thiện và khao khát thật sự.

Tin Mừng còn kể sau sự kiện được cha mẹ dâng mình cho Thiên Chúa, trẻ Giêsu lớn lên đầy khôn ngoan và trong ơn nghĩa Chúa. Trong gia đình Thánh Gia, mặc dù là Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể làm người, Chúa Giê-su vẫn hoàn toàn chu toàn bổn phận với Chúa Cha trong tư cách là Con Thiên Chúa (x. Lc 2,49) và chu toàn bổn phận là con trong một gia đình khi sống đời khiêm hạ và hằng vâng phục Mẹ Ma-ri-a và thánh Giu-se (x. Lc 2,51). Người ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Thiên Chúa (x. Lc 2,40). Như vậy, noi gương Chúa Giê-su, trong phận làm con, chúng ta có bổn phận hiếu kính cha mẹ mình. Sự hiếu kính đó không chỉ là điều hợp với lẽ phải, hợp với khao khát chính đáng của con người, nhưng còn là điều đẹp ý Chúa. Bởi lẽ Thiên Chúa muốn con cái thờ cha kính mẹ (x. Đnl 5,16). Bởi lòng hiếu thảo của con cái là quà tặng đẹp nhất dâng cho cha mẹ và được Chúa chúc lành. Cũng vậy, các bậc làm cha làm mẹ hãy biết dâng con mình cho Thiên Chúa (dâng ở đây không có nghĩa là đi tu), nhưng là phải biết ký thác cho Chúa, xin Chúa soi sáng, ban sức mạnh và hướng dẫn con cái biết sống đẹp lòng Chúa và có ích cho Giáo Hội cũng như xã hội.

******

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết sống thánh thiện và khao khát Chúa thực sự, để được Chúa viếng thăm, cho gặp và biến đổi, hầu chúng con ngày một lớn lên trong ơn nghĩa Chúa. Amen.

Thứ Năm, 28 tháng 12, 2017

LỄ THEO NGÀY 29.12

Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi. Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ. (Lc 2, 29-30)

Tin mừng hôm nay trình bày về biến cố Mẹ Maria và thánh Giuse đem Đức Giêsu vào đền thánh để dâng cho Thiên Chúa. Tin Mừng Thánh sử Luca đã lồng ghép hai nghi thức thánh tẩy cho Mẹ sau khi sinh và dâng Đức Giêsu (Con đầu lòng) cho Thiên Chúa thành một. Có người cho rằng đây là một cách Luca dùng để ngầm ý làm nổi bật sự kết hợp giữa Đức Giêsu và Mẹ Người trong việc tiến dâng cho Thiên Chúa Cha. Luca muốn diễn tả biến cố này là một sự thánh tẩy đền thờ hơn là Mẹ được thanh tẩy. Thật vậy, cách trích dẫn Cựu Ước ở đây, cho thấy Luca chú ý đến tính thần học hơn là về phương diện lịch sử. Có lẽ thánh sử Luca không quan tâm lắm đến việc Mẹ cần tẩy uế, vì Người không thể bị ô uế khi sinh ra Đức Giêsu là Thiên Chúa, Đấng Chí Thánh và thanh sạch, cũng như Mẹ là Đấng thanh sạch vì được tràn đầy ân sủng, nên lễ thanh tẩy ở đây có lẽ Luca muốn ám chỉ đền thờ Giêrusalem. Vì từ khi Hòm Bia bị mất (vào 587 TCN), đền thờ đã trở nên trống rỗng và xem như Thiên Chúa không còn hiện diện nữa. Nay Đức Giêsu Cứu Thế đến, đền thờ lại được tràn đầy, Thiên Chúa lại hiện diện, và như thế, đền thờ được tẩy uế. Cách kể chuyện của Luca còn cho thấy việc dâng Chúa Giêsu trong đến thánh như là một cuộc gặp gỡ giữa Cựu Ước và Tân Ước (giữa Simêon và Anna đại diện cho Cựu ước với Đức Giêsu là Đấng khai mở Tân Ước).

Vốn là người công chính và sùng đạo, ông Simêon được ơn linh hứng sẽ gặp Đấng Kitô trước khi chết. Dù đã ở độ tuổi gần đất xa trời, trước khi nhắm mắt xuôi tay, ông Simêon cảm thấy không yên lòng nếu chưa nhìn thấy Đấng Cứu Độ. Được Thần Khí thúc đẩy, ông Simêon náo nức lên đền thờ để cầu nguyện và khiêm cung chờ đợi. Niềm vui vỡ òa khi ông được bồng ẵm Hài Nhi Giêsu trên tay. Bằng đôi mắt đức tin, ông Simêon đã nhận ra Hài Nhi Giêsu chính là ánh sáng soi đường cho dân ngoại và là vinh quang của Israel. Ông Simêon đang đối diện với sự già nua của tuổi tác, những giới hạn của phận người, thế nhưng sau khi gặp Hài Nhi Giêsu, ông đã có một niềm vui tròn đầy viên mãn và cuộc sống mới tươi đẹp được mở ra thay cho những gì là già nua chết chóc. Cuộc gặp gỡ đã lưu lại nhiều kỷ niệm, niềm vui linh thánh chan hòa khiến họ cất cao tiếng hát chúc tụng tình thương Thiên Chúa. Còn với gia đình Nagiaret, sau khi làm xong mọi việc như Luật Chúa truyền, họ trở về quê hương bắt đầu cuộc sống đầy ân nghĩa cùng Thiên Chúa. 

Mặt khác, lời tiên báo của ông Simêon: “Một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn hồn Bà” (Lc 2, 35) là một mặc khải về viễn tượng đau khổ của Đức Giêsu cũng như của chính Mẹ Maria, và từ đó cùng với Con mình, Mẹ Maria bước vào cách mãnh liệt sự hiệp thông cứu chuộc, để tâm hồn nhiều người được tỏ lộ, Mẹ đồng hành với công cuộc truyền giáo của Con và kết hiệp với hy tế của Con (sosio passionis) hầu mưu cầu sự cứu rỗi cho con người. Lời của ông Simeon như một cuộc truyền tin thứ hai cho Mẹ; vì đã cho Mẹ thấy chiều kích cụ thể trong lịch sử, trong đó Con của Mẹ sẽ thực hiện sứ vụ của mình: giữa sự cứng tin và trong đau khổ. Một mặt, nếu lời loan báo này xác nhận niềm tin của Mẹ vào việc Thiên Chúa sẽ thực hiện các lời hứa, thì mặt khác cũng cho thấy Mẹ phải sống sự vâng phục đức tin trong đau khổ, bên cạnh Đấng Cứu Độ khổ đau; chức năng Từ Mẫu của Mẹ sẽ nằm trong bóng tối và sự đau xót. Đặc biệt, dưới chân thánh giá, nhờ lòng tin, Mẹ chia sẻ vào mầu nhiệm kinh hoàng của sự tự hạ. Có lẽ đó là sự tự hạ (kénosis) sâu xa nhất của đức tin trong lịch sử loài người. Nhờ đức tin, Mẹ Maria tham dự vào cái chết cứu độ của Con mình; nhưng khác với đức tin của các môn đệ đang chạy trốn, đức tin của Mẹ thật chói ngời. Qua thập giá, Đức Giêsu đã chứng thực cách dứt khoát trên đồi Calvê rằng Người là dấu hiệu bị người đời chống báng”(Lc 2, 34b) như ông Simeon đã báo trước. Đồng thời, ở nơi đó những lời nói về Mẹ cũng thành tựu: “Phần Bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thấu lòng Bà”.(Lc 2, 35.) Cũng như Đức Kitô đã chấp nhận chịu thử thách đau khổ không phải do tội của Người, mà là vì gánh lấy tội thế gian, Mẹ thánh thiện đã chịu đau khổ nhiều khi dâng lên Chúa Cha sự đau khổ của Đức Kitô và sự đau khổ của chính mình như Mẹ của Đấng Cứu Thế. Mẹ thông hiệp đầy đủ vào hy tế của Con trong giai đoạn có tính cách lịch sử của nó. Sự đau khổ của Con Thiên Chúa thì vô cùng và sự đau khổ của Mẹ cũng thật lớn lao.

*******

Lạy Chúa Giê-su, Chúa đã trở thành trẻ thơ cho người ta nâng niu và ôm ẵm. Chúa đã cảm nhận tình yêu chia sẻ của con người. Xin cho chúng con biết mở rộng vòng tay đón nhận và tôn trọng mọi người, nhất là các trẻ thơ vô tội. Xin cũng giúp chúng con biết noi gương Mẹ Maria mà cộng tác với Chúa trong việc cứu độ nhân trần. Amen.

Thứ Tư, 27 tháng 12, 2017

LỄ CÁC THÁNH ANH HÀI


Ở Ra-ma, vẳng nghe tiếng khóc than rền rĩ: tiếng bà Ra-khen khóc thương con mình và không chịu để cho người ta an ủi, vì chúng không còn nữa. (Mt 2, 18)

Ngày thứ 4 trong tuần bát nhật Giáng Sinh, lịch phụng vụ mời gọi ta kính nhớ tới các thánh Anh Hài Tử Đạo. Vậy các thánh Anh Hài là ai? Xin thưa, các ngài là những nạn nhân của quyền lực bóng đêm, đã được phúc tử đạo khi chưa thể tự vệ, chưa thể lo cho chính bản thân mình, các ngài chết thay cho Đấng Cứu Thế khi quyền lực sự dữ, quyền lực bóng đêm xâm nhập vào con người của bạo chúa Hêrôđê. Hôm nay, bài Tin Mừng tường thuật việc các thánh Anh Hài bị giết bởi bàn tay bạo quyền của Hêrôđê, âu cũng vì ông lo sợ cái ghế của ông bị lung lay. Vua Hêrôđê sợ bị mất vương quyền nên đã sát hại các con trẻ. Ông đã giết các hài nhi vô tội vì sự ích kỷ và tàn ác của mình. Đáng tiếc cho Hêrôđê là ông không biết Hài Nhi Giêsu đâu màng gì ngai báu trần gian, hơn nữa tất cả đều nằm trong chương trình của Thiên Chúa. Có thể nói nơi con người của bạo chúa Hê-rô-đê đã bị quyền lực bóng đêm, quyền lực sự dữ sẽ lấn áp, từ đó đưa đến việc ông ta không tin có Thiên Chúa, không cộng tác vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa, ông ta sợ sự xuất hiện của Hài Nhi Giêsu như lời tiên báo của các ngôn sứ trong Kinh Thánh sẽ ảnh hưởng đến chiếc ghế danh vọng mà ông đang sở hữu, hơn nữa, sau khi ba nhà Đạo Sỹ tìm đến bái thờ và dâng quà tặng cho Hài Nhi Giêsu đã không trở lại với ông vì được Thiên Chúa mách bảo qua giấc mộng. Từ đó, Hê-rô-đê lồng lộn như “sói dữ tham mồi”, để rồi sau đó, ông ta nhúng tay vào tội ác qua việc tìm giết Hài Nhi Giêsu, tiếp theo đó là việc giết hại các trẻ em vô tội, đem đến cho các bà mẹ và khắp kinh thành Be-lem sự hoảng loạn và mất bình an.

Tuy nhiên, việc đam mê cái ghế quyền lực không chỉ là chuyện của thời nào, mà là có từ khi có thế giới loài người và sẽ tồn tại cho đến tận thế. Người ta tìm mọi cách và mọi thủ đoạn để đoạt được cái ghế quyền lực, và khi đã đoạt được thì người ta cũng tìm cách bảo vệ nó bằng bất cứ giá nào. Việc này vẫn đã và đang xảy ra trong xã hội chúng ta, từ cấp nhà nước đến làng xã, len lỏi cả vào trong Giáo Hội, thậm chỉ ảnh hưởng cả vào trong các tu viện khi không thiếu những người tìm mưu tính kế hạ bệ người khác để mình được thăng lên. Ngày nay, vẫn còn đó những bạo chúa Hê-rô-đê khước từ, chống đối Thiên Chúa, muốn “ thay trời hành đạo ” trong cách hành xử tàn ác, bất công với anh em đồng loại; nhiều bạo chúa Hê-rô-đê vì tiền, quyền, danh, lợi, đam mê mà loại trừ, sát hại anh em mình, nhất là những anh em bé nhỏ, nghèo hèn; tệ hại nhất là những bạo chúa Hê-rô-đê đang mang trong mình những trọng trách, những bổn phận của những người làm cha, mẹ, người con, người vợ, người chồng nhưng vì ích kỷ, hẹp hòi đã đang tâm giết hại chính con đẻ, người “ đầu ấp, tay gối”, giết hại chính các bậc sinh thành dưỡng dục nên mình bằng lời nói và hành động; qua cách sống trái ngược với Tin Mừng nơi ta là người Kitô hữu, cách sống đó đã đưa đẩy ta trở thành bạo chúa Hê-rô-đê làm biến dạng, xóa mờ hình ảnh tuyệt mỹ của Thiên Chúa, đôi khi ta lại trở thành những “ kỳ đà cản mũi” khi những người anh em chung quanh muốn tìm và đến với Chúa. Ngày lễ Các Thánh Anh Hài hôm nay nhắc nhở chúng ta biết tôn trọng sự sống  mà Thiên Chúa ban. Sống yêu thương, quảng đại là điều cần phải có để mang lại hòa bình, hạnh phúc cho thế giới ngày nay. Đó cũng là điều làm vinh danh Thiên Chúa. Là Kitô hữu, sống theo Đức Kitô vì là môn đệ của Đức Kitô, chúng ta không thể đi con đường khác Thầy Chí Thánh đã đi, nên không tránh khỏi những cuộc bách hại như Thầy đã bị bách hại, để làm tròn sứ mạng theo ý Chúa Cha. Đời sống đạo chúng ta gặp nhiều khó khăn do hoàn cảnh, do những người chung quanh, nhưng quan trọng là nơi chính chúng ta, những yêu sách tự nhiên trái ngược với những đòi hỏi của Tin Mừng Đức Kitô. Chúng ta cần hi sinh, bỏ mình, vác thập giá mọi ngày để theo Đức Kitô như lời Người đã dạy. Những hi sinh từ bỏ ấy, có khi rất bé nhỏ, nhưng với lòng yêu mến Đức Kitô và vì Đức Kitô, nó sẽ có giá trị lớn lao như cái chết của các Thánh Anh Hài. Hơn nữa để cộng tác vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa, chúng ta noi gương Thánh Giuse luôn lắng nghe và tuân phục thi hành lời Chúa, làm tròn bổn phận trong gia đình theo phận vụ của mình, cho kế hoạch của Thiên Chúa được nên trọn. Đừng bắt chước Hêrôđê vì háo danh, cố vị, ghanh tị, ngờ vực kẻ khác gây nên nhiều hành vi độc ác, chia rẽ, phá vỡ hạnh phúc của nhiều người, cản trở việc loan báo Tin Mừng.

********

Lạy Chúa! Nhờ lời chuyển cầu của các thánh Anh Hài, xin Chúa thương đến các thai nhi vô tội đang bị chính những người thân, đồng loại tước đoạt mạng sống. Xin Chúa thánh hóa và soi sáng cho những ai đang có ý định “quảng bá”, xúi bẩy, thỏa hiệp việc phá thai, để nhờ ơn Chúa họ nhận ra đây là tội ác “Trời không dung, đất không tha”. Xin cho con trong từng ngày sống biết chết đi những đam mê, những thói hư tật xấu, biết hy sinh chính mạng sống mình để Danh Chúa được cả sáng, Nước Chúa được hiển trị. Amen 

Thứ Ba, 26 tháng 12, 2017

LỄ KÍNH THÁNH GIOAN TÔNG ĐỒ


Hôm nay, cùng với toàn thể Giáo Hội, chúng ta mừng kính Thánh Gioan Tông Đồ, thánh sử, vị Tông đồ của tình yêu. Một ai đó đã nói: nếu bạn muốn hiểu biết thâm sâu về tín lý, thần học, hãy đọc thư thánh Phaolô; nếu bạn muốn thăng tiến trên con đường tu đức, hãy đọc thư thánh Giacôbê; nhưng nếu bạn muốn biết, muốn hiểu, muốn cảm nghiệm về tình yêu, nền tảng của Đạo Công Giáo, bạn không thể không đọc tác phẩm của thánh Gioan.

Thánh Gioan là một trong bốn Môn Đệ đầu tiên được Chúa Giêsu kêu gọi, Ngài là một ngư phủ ở biển hồ Galile, là con trai ông Dêbêđê và bà Salômê, là em của Thánh Giacôbê (Tiền). Trước khi trở thành Môn Đệ của Chúa Giêsu, ông là Môn Đệ của Gioan Tẩy Giả. Thánh Gioan còn trẻ rất mực yêu thương Chúa Giêsu, nhưng Ngài nghĩ rằng tình yêu Chúa dành cho mình còn lớn lao hơn nhiều nên tự gọi mình là “người môn đệ được Chúa Giêsu yêu thương”. Từ đó Ngài không bao giờ rời xa Chúa Giêsu. Thánh Gioan có mặt trong tiệc cưới Cana, cũng như chứng kiến với Phêrô và Giacôbê quang cảnh uy linh“Chúa biến hình trên núi Tabor”. Trong buổi Tiệc ly, Thánh Gioan đã dựa đầu vào ngực Chúa, Ngài đi theo Chúa đến đồi Calvary, là người môn đệ duy nhất đứng dưới chân thánh giá. Trước khi trút hơi thở cuối cùng, Chúa đã trối lại mẹ mình cho người môn đệ yêu quý và gởi gắm mẹ mình cho thánh Gioan: “Thưa Bà, đây là con của Bà.” rồi nói với Ngài:“Ðây là mẹ của anh”. Kể từ giờ phút đó người môn đệ rước Bà về nhà mình. Sự nghiệp mà Thánh Gioan để lại cho Giáo Hội là rất quý giá, bao gồm: Một sách Tin Mừng, một sách Khải Huyền và 3 bức thư. Những sách này đều nói lên tình yêu hải hà của Thiên Chúa qua ngôi lời Nhập thể là Đức Kitô, nội dung các sách đều nói về tình yêu, Ngài chuyên nói về tình yêu Thiên Chúa và khuyên mọi người hãy yêu thương nhau, Ngài luôn lặp đi lặp lại điều này. Trong các sách Tin Mừng, khi cần đề cập đến tên mình, Ngài lúc nào cũng tự xưng mình là “Người Môn Đệ Chúa yêu”, Ngài là một trong 3 Môn Đệ thân tín nhất của Đức Kitô, và Chúa đã dành cho Ngài rất nhiều đặc ân, Ngài qua đời khoảng năm 100.

Tin mừng hôm nay trình thuật cho chúng ta thấy hình ảnh vị tông đồ được Đức Giê-su thương mến – tông đồ Gioan – đầy tình yêu, sự nhanh nhẹn, năng nổ và nhiệt huyết. Những yếu tố đó đã khiến cho vị tông đồ trẻ khi nghe nói: “Người ta đã lấy mất xác thầy!” thì liền tức tốc cùng với tông đồ trưởng chạy ra mộ. Tuy nhiên, vị tông đồ trẻ cũng thật dễ thương trong thái độ khiêm tốn, biết kính trọng cương vị của tông đồ trưởng Phê-rô nên cho dù chạy tới trước, ngài vẫn biết khép mình để cho huynh trưởng bước vào rồi mới vào theo sau. Cả hai tông đồ Phê-rô và Gioan đều thấy - Họ đã thấy những gì? Họ thấy không còn xác Chúa đúng như lời bà Maria Madalena đã nói; họ chỉ thấy khăn liệm và băng vải; nhưng Gioan đã tin – Ông tin không phải xác thầy bị đánh cắp như trí tưởng thường tình của con người suy nghĩ, mà tin rằng Thầy đã phục sinh. Làm sao Gioan lại tin Đức Giê-su đã phục sinh? Ông tin là do cả một tiến trình sống gần gũi cùng thầy, hấp thụ lời thầy giảng dạy, và đồng thời trong sự nhạy bén của tình yêu; Gioan đã nhận ra dấu chỉ thầy đã sống lại trong cách thầy xếp gấp những băng vải, khăn liệm và  dựa vào lời thầy đã nói khi còn sống – Đó là những tín hiệu mà nếu không phải là người tinh tế, quan tâm, có mối thâm tình với Đấng mình yêu mến thì khó có thể nhận ra. Gioan đã thấy và đã tin! Còn tôi, tôi có thấy những dấu hiệu của Thiên Chúa và tin không? Mừng mầu nhiệm Giáng sinh, chúng ta được mời gọi suy gẫm về mầu nhiệm Phục sinh, và được mời gọi dâng hiến tình yêu cho Thiên Chúa. Như tông đồ Gioan, mỗi người chúng ta cần thiết lập mối tương quan thân tình với Đức Giê-su Ki-tô – Đấng hằng yêu thương chúng ta. Người yêu thương chúng ta trước và mời gọi chúng ta đáp lại bằng cuộc sống đức tin trong việc thực thi lời Người truyền dạy. Mỗi người chúng ta cần phải thấm nhuần Lời Chúa để có được sự tinh tế, nhạy bén nhận ra ý muốn của Thiên Chúa trong mọi biến cố của đời sống; để mỗi ngày chúng ta biết sống quảng đại hơn, yêu thương nhiều hơn, kiên nhẫn, thứ tha, chia sẻ và phục vụ cách vô vị lợi.

********

Lạy Chúa! Nhờ tình yêu mà Thánh Gioan đã nhận ra Chúa Giêsu sống lại nơi ngôi mộ trống, nhờ yêu nên Thánh Gioan có trực giác rất bén nhạy. Cũng nhờ yêu Chúa quá sâu đậm nên Thánh Gioan đã viết sách về Chúa với những ý tưởng hết sức cao siêu. Lạy Chúa, xin làm cho lòng chúng con bừng cháy lửa yêu mến Chúa như Thánh Gioan Tông Đồ. Xin giúp con biết lắng nghe và tuân giữ lời Chúa mà Thánh Gioan đã viết trong Tin Mừng. Amen.

Thứ Hai, 25 tháng 12, 2017

LỄ KÍNH THÁNH STEPHANO TỬ ĐẠO TIÊN KHỞI


Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát (Mt 10, 22)

Khi mà niềm vui của Lễ Giáng Sinh lên đến tột đỉnh vào đêm Giáng Sinh và cả ngày hôm qua, và khi mà niềm vui này vẫn còn âm vang mạnh mẽ trong lòng chúng ta, thì ngay sau là Thánh Lễ mừng kính thánh Tê-pha-nô, vị tử đạo tiên khởi. Thánh Stephano là một trong 7 vị phó tế đầu tiên của Giáo Hội do chính các Tông Đồ tuyển chọn và đặt tay ban Thánh Thần. Với cái chết oai hùng của thánh Stephano, đã làm ứng nghiệm, đã sống và chết theo Lời Thầy Chí Thánh đã tiên báo trong bài Tin Mừng hôm nay, lời của Đức Giê-su dường như nói cho chúng về một thực tế, có thể làm cho chúng ta băn khoăn, lo lắng, thậm chí buồn lòng, bởi lẽ, vì danh của Đấng mà chúng ta đang tưng bừng mừng sinh nhật và của Đấng mà chúng ta thuộc về và đi theo suốt đời, chúng ta sẽ “bị mọi người thù ghét” ! Và không chỉ bị người đời thù ghét, nhưng cả những người thân yêu nữa : Anh sẽ nộp em, em sẽ nộp anh cho người ta giết; cha sẽ nộp con, con cái sẽ đứng lên chống lại cha mẹ và làm cho cha mẹ phải chết. Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. (Mt 10, 21-22). Sự thù ghét này còn đi rất xa: nộp cho các hội đồng, điệu ra trước mặt vua chúa quan quyền, đánh đập và giết đi. Sự chống đối được Đức Giê-su mô tả thật tận căn, một đàng để giúp chúng ta nhận ra năng động của bóng tối và của sự chết hiện diện ở khắp nơi và ở trong mọi người, và đàng khác để làm bật lên một tận căn khác, là ánh sáng và sự sống: “Ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại” (x. Ga 1, 4, bài Tin Mừng của Thánh Lễ Giáng Sinh ban ngày); bởi vì chỉ có sự tận căn này mới gây ra sự tận căn kia mà thôi. Đó là sự tận căn của chính Đức Giê-su, như Ngài nói trong bài Tin Mừng : «vì Thầy», «vì danh Thầy». Chúa Giêsu tiên báo điều này đã ứng nghiệm từng câu chữ trong những thời kỳ bách hại. Biết bao người mang danh Kitô hữu đã phải chịu bắt bớ, ngược đãi, loại bỏ, tù đày, tra tấn và bị giết chết để làm chứng cho Chúa Kitô. Ngày nay, sự bách hại vẫn diễn ra, nhưng mang tính tinh vi và trường kỳ. Vì danh Chúa, người môn đệ phải đối diện với những thử thách do nội tâm, do xác thịt, do cuộc sống và do xã hội gây nên. Tuy nhiên, để được vinh thân phì gia và được ca tụng, không ít người Công Giáo đã không ngại “chối Chúa” là từ bỏ lề luật, bỏ đạo để bán mình cho “tà thần”(…). Nhẹ hơn, không ít người giấu diếm để khỏi người khác biết mình là người Công Giáo vì sợ bị chê cười hoặc bị kỳ thị trong công việc… Còn những ai dám sống thật và dám làm chứng cho Chúa và cho sự thật thì cái giá họ phải trả là chịu bách hại đủ đường từ chính thể chế chúng ta đang sống cũng như mất đi những cơ hội tiến thân…Là Kitô hữu, chúng ta vẫn thích một sự dễ dãi hơn là những hy sinh sớm tối. Gặp khó khăn chúng ta không dám đối diện với sự thật mà tìm cách né tránh; gặp đau khổ thì dễ than trách hơn là nhẫn nhục lập công phúc trước mặt Chúa.

Nhưng lời loan báo của Đức Giê-su về sự bách hại thậm chí giết hại, lại chứa đựng Sự Sống của Thiên Chúa và hướng đến Sự Sống viên mãn của Người, theo khuôn mẫu của “Hạt Lúa Mì”, nghĩa là của mầu nhiệm Vượt Qua. Thật vậy, bách hại, nhưng lại là cơ hội để làm chứng cho Thầy” (Mt 10, 18). Chúa Giêsu khích lệ: “Khi người ta đưa anh em ra trước hội đường, trước mặt những người lãnh đạo và những người cầm quyền, thì anh em đừng lo phải bào chữa làm sao, và phải nói gì, vì ngay trong giờ đó Thánh Thần sẽ dạy cho anh cho anh em biết những điều phải nói”. Chúa Thánh Thần hướng dẫn con người đi tìm chân lý, đi tìm sự thật. Qua mọi thời và mọi nơi, Chúa Thánh Thần an ủi và nâng đỡ Giáo Hội và các Kitô hữu can đảm tuyên xưng đức tin. Thật vậy, trong hành trình sống đạo, chúng ta có Thiên Chúa luôn quan phòng đồng hành qua bảy ân sủng của Chúa Thánh Thần, nhất là sự khôn ngoan, hiểu biết và mạnh bạo để làm chứng cho Chúa. Tình thương Thiên Chúa luôn quan tâm săn sóc con người  bao bọc và bảo vệ con người, nên hãy luôn tín thác vào sự quan phòng của Thiên Chúa. 

******

Lạy Chúa! Giữa cuộc đời này, chúng con luôn bị giằng co giữa tin hay không tin, chọn Chúa hay chọn thế gian, chọn hy sinh từ bỏ hay thoả hiệp tình cảm, thú vui, danh vọng và quyền lực. Xin cho chúng con, một khi đã tin vào Chúa, phải sẵn sàng vượt lên và thậm chí trên cả tình cảm gia đình ruột thịt để dứt khóat chọn Chúa, bước theo và làm chứng nhân cho Ngài. Amen.

Chủ Nhật, 24 tháng 12, 2017

LỄ GIÁNG SINH - LỄ BAN NGÀY


Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời, Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa và Ngôi lời là Thiên Chúa.(Ga 1,1)

Nhiều người trong chúng ta quen gọi ngày lễ Chúa Giáng sinh là ngày lễ Noel. Noel có nghĩa là gì có lẽ ít người biết. Noel không phải là ngày lễ của ông già Noel, chữ Noel bắt nguồn từ tiếng Do Thái chỉ về Đấng Cứu Thế được các tiên tri nói đến, đó là Đấng Emanuel, có nghĩa là Đấng Ở Cùng Chúng Ta. Lễ Chúa Giáng Sinh hoặc lễ Noel là một ngày lễ đánh dấu sự kiện đặc biệt Con Thiên Chúa xuống thế làm người. Giáo Hội đã chọn ngày 25/12 hàng năm là dịp mừng sinh nhật của Ngài.

Tin Mừng Gioan chúng ta nghe hôm nay, qua giọng văn và cách trình bày, giới thiệu cho chúng ta về Ngôi Lời Thiên Chúa: Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời, Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa và Ngôi lời là Thiên Chúa.(Ga 1,1). Ngôi Lời được Thánh Gioan giới thiệu đó là Ngôi Hai Thiên Chúa, là chính Thiên Chúa. Thánh Gioan quả quyết rằng, công trình tạo dựng vũ trụ từ ban đầu là công trình của Thiên Chúa Cha, song Ngôi Lời là Ngôi Hai Thiên Chúa, giữ một vai trò hết sức quan trọng, vì nhờ Người mà muôn vật được tạo thành. Ngôi Lời chính là sự sống, Người thông ban sự sống cho nhân loại và vũ trụ, Người là ánh sáng sự thật, là chân lý xua tan bóng tối của tội lỗi và gian ác. Tin Mừng cũng nhắc đến Gioan Tiền Hô như một người được sai đến chuẩn bị cho Đấng là Ánh Sáng sẽ đến. Đấng là Ánh Sáng đó là Chúa Giêsu mà chúng ta đang cử hành ngày sinh của Người. Người đến không phải để kết án hay hủy diệt thế gian, nhưng để tha thứ và chữa lành, để nâng con người chỗi dậy và dẫn con người thoát khỏi bóng tối của sự tội và sự chết. Ánh sáng Tin Mừng của Chúa dẫn nhân loại đi theo con đường Thiên Chúa muốn để đạt được hạnh phúc đời đời. Ánh sáng của Chúa còn chiếu vào những góc khuất của tâm hồn, phá hủy những gì là quanh co dối trá, phơi bày ra ánh sáng tất cả hành động của con người. Tuy nhiên, có một thực tế thật phũ phàng, Thiên Chúa đã đến thế gian để ở với con người là những kẻ Ngài yêu thương, thế nhưng chính những kẻ được yêu thương, lại là những kẻ từ chối Thiên Chúa. Dân Do Thái từ lâu đã được thừa hưởng lời hứa cứu độ, được Thiên Chúa chọn làm dân riêng và còn chuẩn bị cho họ rất kỹ để đón nhận Đấng Cứu Thế. Tuy nhiên khi Chúa Giêsu- Đấng Cứu Thế đến, thì chính những người này tỏ ra dửng dưng hờ hững và còn tìm cách loại trừ Chúa, không muốn Chúa can thiệp vào cuộc đời và công việc của họ. Những người Do Thái đã đi đến tận cùng của sự gian ác, họ đã rắp tâm mượn tay dân ngoại để giết chết Ngài bằng cái chết đóng đinh trên thập giá.

Thế nhưng, Thiên Chúa thật khôn ngoan và quyền năng, Ngài đã dùng chính cây thập giá để biến thành cây quy tụ nhân loại và mang lại ơn cứu độ cho nhân loại, để tất cả những ai tin Ngài thì được gia nhập vào dân thánh, dân mới của Chúa và được làm con Thiên Chúa. Qua cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu, chúng ta không còn là thù địch với Thiên Chúa, nhưng đã được biến đổi để trở nên người nhà của Thiên Chúa. Thiên Chúa không còn ở xa con người, nhưng Thiên Chúa như một người cha gần gũi, yêu thương, chăm sóc chúng ta là con của Người. Mừng Đại lễ Giáng sinh, chúng ta tuyên xưng một màu nhiệm hết sức quan trọng trong niềm tin của Hội Thánh: Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người, Ngài chính là Chúa Giêsu, Thiên Chúa thật và là người thật. Đã có nhiều thời kỳ trong lịch sử và trong các tín hữu đã chỉ nhấn mạnh Chúa Giêsu là Thiên Chúa thật mà quên rằng Ngài cũng là con người thật. Chúa Giêsu thực sự là Thiên Chúa, hiện hữu từ muôn đời, đồng bản tính với Chúa Cha. Vì là Thiên Chúa thật, Ngài mới có đủ quyền năng để cứu độ thế giới và xua trừ ma quỷ. Nếu Ngài không phải là Thiên Chúa thật, Ngài sẽ không thể cứu độ thế giới và cái chết của Ngài cũng sẽ giống như bao nhiêu tử tội khác thời La Mã. Tuy vậy, Chúa Giêsu cũng là con người thật, bằng xương bằng thịt, Ngài biết no biết đói, biết vui biết buồn. Vì là con người thật, Ngài mới có thể chia sẻ đến tận cùng nỗi đau khổ của con người, kể cả cái chết, để cảm thông, nâng đỡ và chữa lành cho con người và để nâng con người chỗi dậy.

Đã bao mùa Giáng sinh đi qua cuộc đời mỗi người, mà dường như sau ngày đại lễ tưng bừng, chúng ta cũng lại cất Chúa vào một chỗ nào đó, giống như dọn dẹp các đồ trang trí giáng sinh vậy. Thiên Chúa muốn có một chỗ trong tâm hồn chúng ta, Ngài muốn được nuôi dưỡng, được lớn lên trong từng tâm hồn, từng gia đình chúng ta, thế nhưng chúng ta cũng không quan tâm đến mong muốn của Chúa; chúng ta vẫn để cho tội lỗi, dục vọng, thói xấu cùng cái tôi ích kỷ chen lấn chỗ của Chúa. Chúng ta thay thế vị trí của Chúa trong tâm hồn và gia đình bằng những lo toan và những tìm kiếm danh vọng, địa vị, uy tín và tiền bạc. Chúa muốn đến để cho chúng ta được sống và sống dồi dào, Chúa cũng dạy chúng ta biết tôn trọng sự sống của mình và của kẻ khác. Vì thế, hãy biết tôn trọng bản thân, tôn trọng tư cách, phẩm giá và sự sống của mình và của người khác, bằng cách sống đúng với phẩm giá làm người và làm con Chúa. Hãy chung tay bảo vệ sự sống Chúa ban tặng cho các gia đình, đó là các thai nhi, bằng cách ngăn chặn việc sát hại các thai nhi dưới mọi hình thức, vì đó là tội ác, tội giết người. Chung tay bảo vệ các trẻ em để các em có được một cuộc sống tốt đẹp, một tuổi thơ hạnh phúc bằng việc loại trừ các hình thức bạo hành bạo lực với trẻ em. Vậy, mỗi người, mỗi gia đình cùng chung tay bảo vệ sự sống và phẩm giá con người như thế, cuộc sống sẽ ngày càng thêm tốt đẹp theo ý Chúa muốn và ánh sáng tình thương của Chúa sẽ được chiếu tỏa trên thế gian này qua các việc làm tốt đẹp tích cực của chúng ta. 

******

Lạy Chúa! Xin cho chúng con trở thành những ông già No-en đầy lòng nhân ái, luôn sẵn sàng đến với những người bất bạnh để chia sẻ tình thương cho họ. Ước gì niềm vui trong ngày mừng Chúa Giáng Sinh không dừng lại ở những trang trí hình thức bên ngoài, nhưng ở tình người được nhân lên mãi, được nối kết thành vòng tay lớn, xây dựng một thế giới ngày một bình an thịnh vượng và đầy tràn hạnh phúc theo thánh ý Chúa.Amen.

Thứ Bảy, 23 tháng 12, 2017

LỄ GIÁNG SINH – THÁNH LỄ BAN ĐÊM

Trong khung cảnh xã hội dường như tiền bạc, hưởng thụ, vật chất đang thống lĩnh và gây sức ép trên tất cả mọi người thì Tin Mừng Giáng Sinh hôm nay nói với chúng ta rằng : Con Thiên Chúa xuống thế làm người để giải thoát và nâng cao phẩm giá con người. Thiên Chúa làm người để cho con người được làm con Thiên Chúa. Tuy nhiên, Thiên Chúa nâng cao phẩm giá và giải thoát con người như thế nào ? Trong bài đọc một, tiên tri Isaia loan báo về một cuộc giải thoát khỏi sự áp bức bên ngoài và sự ràng buộc bên trong con người. Isaia đã loan báo về ngày một Người Con sẽ được ban tặng cho nhân loại, chính Đấng ấy sẽ là Đấng giải thoát con người. Đấng mà Tiên tri Isaia tiên báo nay đã đến, thế nhưng Ngài lại không đến trong tưng bừng như ngày một hoàng tử ra đời, mà ngài lại đến trong âm thầm đơn sơ nghèo nàn. Ngài không đến trong một cung điện, không một chút vinh quang của hoàng gia, nhưng Ngài lại được sinh ra trong một gia đình đơn sơ mộc mạc và sinh ra ở một nơi bần cùng nghèo nàn. Thế nhưng từ nơi bần cùng nghèo hèn ấy, lại toát lên sự thánh thiện, từ nơi chuồng bò tối tăm ấy lại bừng lên ánh sáng hy vọng cho nhân loại.

Tin mừng giải thoát đã được các thiên thần mau chóng loan báo cho những con người bần cùng là những mục đồng, là những con người đang bị trói buộc bởi thể chế xã hội, bị trói buộc bởi sự nghèo nàn, bị coi thường trong mắt mọi người. Thế nhưng Thiên Chúa lại muốn chọn họ là những con người đầu tiên được đón nhận tin vui Giáng Sinh này và đem lại cho họ hy vọng ơn giải thoát đã bắt đầu: Anh em đừng sợ, này đây ta báo cho anh em một tin mừng trọng đại cũng là tin vui cho toàn dân: Hôm nay Đấng Cứu độ đã sinh ra cho anh em trong thành của Đavit, Người là Đấng Kitô là Đức Chúa. Cứ dấu này sẽ nhận ra Ngài: Anh em sẽ thấy một hài nhi mới sinh, bọc trong khăn và đặt nằm nơi máng cỏ. Khi đón nhận tin vui giáng sinh, các mục đồng lập tức chỗi dậy, lên đường tìm kiếm Đấng Cứu Thế ngay trong đêm. Họ đi với một tâm trạng hồ hởi vui mừng và mong chờ được gặp Đấng mà các tổ phụ, các tiên tri đã loan báo. Tin Mừng kể lại: Họ hối hả ra đi và gặp bà Maria, ông Giuse và Hài Nhi mới sinh đặt nằm trong máng cỏ. Khung cảnh họ nhìn thấy đầu tiên không phải là một tòa nhà sang trọng, mà là một gia đình đơn sơ nghèo nàn, nhưng mỗi thành viên lan tỏa ra sự thánh thiện. Họ cũng đã gặp được Hài Nhi mới sinh, bọc trong khăn và đặt trong máng cỏ như sứ thần đã báo trước. Mặc dù Tin Mừng không nói đến, nhưng chắc chắn các mục đồng đã tin và đã sấp mình thờ lậy trước Hài Nhi bé nhỏ. Các mục đồng sung sướng hạnh phúc vì thấy được một Thiên Chúa giống như họ, đồng cảm và chia sẻ cảnh nghèo khó đơn sơ và bị loại trừ như họ. Cuộc gặp gỡ của các mục đồng với Hài Nhi Giêsu quả thật là một cuộc gặp gỡ trong đức tin, đòi một bước nhảy dài. Các mục đồng phải vượt qua khung cảnh đơn sơ nghèo khó này, để tin Hài Nhi bé nhỏ yếu ớt kia là một vị Thiên Chúa, Đấng Tạo dựng và điều khiển mọi vật mọi loài. . Tin Mừng kể tiếp: Họ kể lại cho mọi người những gì họ đã nghe và đã thấy về Hài Nhi. Những kẻ nghe họ kể lại cũng ngạc nhiên về những gì được thuật lại, các mục đồng đã hoàn toàn được biến đổi để trở thành những người tiếp tục loan báo tin vui giáng sinh cho mọi người. 

Tuy nhiên, tình trạng lễ Chúa Giáng sinh không có Chúa vẫn đang diễn ra ở nhiều nơi, không chỉ ở những trang trí và các lễ hội bên ngoài, mà nó còn bắt nguồn không chỉ từ phong trào tục hóa, và từ nơi tâm hồn nhiều tín hữu. Nhiều người trong chúng ta không cảm nhận được tình thương cứu độ của Thiên Chúa dành cho mình. Nhiều người đã từ chối không tin, không đón nhận Chúa Giêsu là Chúa là Đấng cứu độ của mình. Vì thế đã bao mùa Giáng sinh trôi qua, họ vẫn không chuẩn bị gì cho tâm hồn, để khi mùa Giáng sinh qua đi giống như cây thông, và các đồ trang trí lại được dọn dẹp cất vào một chỗ để năm tới đem ra trưng bày như cũ, không thêm lòng tin, cũng không thêm lòng yêu mến và không biến đổi gì. Sự tục hóa ngày lễ Chúa Giáng sinh đang ảnh hưởng trực tiếp trên người trẻ. Các thống kê cho thấy, cứ sau mùa lễ Chúa Giáng sinh, các ca nạo phá thai tại các bệnh viện và cơ sở y tế lại tăng mạnh. Lý do là đêm 24/12 trở thành dịp ăn chơi, sa đọa thâu đêm, khiến cho nhiều bạn trẻ không thể dừng lại, để mình bị bản năng, dục vọng điều khiển. Những bạn trẻ này không chỉ xúc phạm đến ngày lễ Chúa Giáng Sinh mà còn xúc phạm nặng nề luật Chúa, làm tổn thương đến cuộc đời mình và tiếp tục gây thêm tội ác giết hại các thai nhi. Thật vậy, Thiên Chúa đến giải thoát chúng ta, Ngài muốn chúng ta sống ngay thẳng công chính, Ngài đến để ban lại cho chúng ta sự sống, Ngài muốn chúng ta giữ gìn và bảo vệ sự sống của mình và của người khác, cách riêng bảo vệ sự sống của các thai nhi. Ngài giải thoát chúng ta khỏi tội và sự chết, Ngài muốn chúng ta đừng để tội lỗi và thói xấu ràng buộc ta trở lại, nhưng dùng lời Chúa và các bí tích làm vũ khí và sức mạnh để giải thoát chúng ta. Ngài đến để đem lại cho chúng ta sự tự do của con cái Chúa, vì thế, chúng ta cần phải đứng thẳng, vươn mình, tự hào là con cái Chúa, đừng luồn cúi và làm nô lệ cho tội lỗi và xã hội hôm nay. Chúa đến để xóa bỏ hận thù và trao ban tình thương, Chúa muốn mỗi chúng ta trở thành sứ giả tình thương của Chúa cho gia đình, bạn hữu và cho tất cả những người chung quanh, đặc biệt là những người đang bị đau khổ, bị bỏ rơi, bị loại trừ. Mừng lễ Chúa Giáng sinh, chúng ta cầu xin Chúa cho mình và cho mọi người, cách riêng cho người trẻ biết vui hưởng một mùa Giáng Sinh thật thánh thiện an bình. Xin cho tất cả mọi người chúng ta gặp được Chúa Giêsu Hài Nhi không chỉ trong hang đá, nhưng còn trong Bí Tích Thánh Thể khi ta đón rước Ngài vào tâm hồn. Xin cho chúng ta noi gương các mục đồng, ra về trong hân hoan và nói cho mọi người về những gì mình cảm nhận, đã nghe và đã thấy. 

******

Lạy Chúa Giê-su, đêm nay, đêm thánh vô cùng, đêm mà Chúa đã giáng sinh vào nơi nghèo hèn tội lỗi để thánh hóa kiếp lầm than của nhân loại thành thánh, thành vương quốc Nước Trời, thành dân thánh và mọi người trở nên người nhà và là anh em với Chúa. Xin cho chúng con cũng biết sống tinh thần nhập thế như Chúa, là hòa mình vào mọi kiếp đời bất hạnh, hầu giúp mọi người có được phẩm giá xứng đáng, và đặc biệt hơn nữa là trở thành con cái Chúa. Amen.

CHÚA NHẬT IV MÙA VỌNG NĂM B


Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giê-su. (Lc 1, 31)

Trong những ngày này nhiều người khi gặp nhau thường hỏi nhau: Noel có chương trình gì không? Câu trả lời thường là cái lắc đầu, người khác thì chuẩn bị cho bữa liên hoan với bạn bè, có người lại lên kế hoạch cho một đêm ở đâu đó, và dịp giáng sinh đối với họ đã trở thành một dịp vui chơi. Còn ở các siêu thị, các đường phố ở Sài Gòn người ta thấy các hình thức trang trí Noel hết sức sặc sỡ đẹp mắt, và vào đêm Giáng sinh mọi người đổ ra đường để đến các tụ điểm đó, ở những nơi ấy cũng có những hang đá, cũng có bộ tượng Chúa Giáng sinh, mà thực ra những hang đá ấy không hề có Chúa, mà chỉ là hình thức để dụ khách hàng đến vui chơi mua sắm. Còn đối với thanh thiếu niên, kể cả những em có đạo, khi hỏi về ngày lễ Giáng sinh là ngày gì có em không biết, mà chỉ biết ngày đó là ngày lễ Noel. Vâng, chính vì ngày nay người ta nhấn mạnh đến chữ Noel hơn là chữ Giáng Sinh, nên nhiều thanh thiếu niên cho rằng ngày lễ này là ngày lễ của Ông già Noel, vì đâu đâu cũng thấy hình ảnh ông già Noel hơn là thấy hình ảnh Giáng Sinh của Con Thiên Chúa. Và nếu trong tương lai, chính phủ công nhận ngày lễ Giáng Sinh là ngày lễ nghỉ như bên phương tây thì e rằng, lúc ấy mùa Giáng sinh sẽ mất đi ý nghĩa tôn giáo mà chỉ còn là mùa mua sắm, mùa lễ hội và mùa du lịch mà thôi. Ngược dòng lịch sử cách đây hơn 2000 năm, một thiếu nữ miền Nagiaret được vinh hạnh đón tiếp Thiên Chúa viêng thăm một cách rất âm thầm nhưng đầy thân tình. Người thiếu nữ ấy tên là Maria. Với lòng quảng đại và với lòng tin tuyệt đối vào quyền năng Thiên Chúa, cô đã không để đánh mất cô hội ngàn năm có một là cộng tác vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Cô đã nhanh nhẹn đáp lời bằng hai tiếng xin vâng. Có thể nói : lời thưa xin vâng lúc này là lời đẹp nhất trong cuộc đời cô. Lời thưa xin vâng không những đã làm nên trang sử mới trong cuộc đời cô mà còn đưa nhân loại bước vào kỷ nguyên mới của lịch sử. Triều đại mới đã bắt đầu. Thời đại hồng ân đã khởi sự. Thiên Chúa đã trở nên Emmanuel ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế.

Ngày hôm nay Thiên Chúa vẫn đang viếng thăm dân Người. Ngài đang đến trong thân phận những con người nghèo khổ, bất hạnh đang cần giúp đỡ, cảm thông. Ngài đang đến trong thân phận những hài nhi yếu ớt đang cần sự đón nhận, chở che. Ngài đang đến trong thân phận những người già neo đơn, bệnh tật đang sống lây lất từng ngày. Ngài đang đến giữa chúng ta. Ngài cũng có thể đã từng bị chúng ta khước từ. Ngài đã từng bị chúng ta xua đuổi, chúng ta tẩy chay, chúng ta loại trừ. Ngài vẫn đang âm thầm đến ngỏ lời từng cuộc đời chúng ta. Hãy rộng lòng đón nhận Chúa. Hãy quảng đại để chấp nhận Chúa. Hãy dấn thân và phục vụ Chúa qua những anh em đang cần sự trợ giúp của chúng ta. Vâng Thiên Chúa đã hạ sinh làm người và ở giữa chúng ta. Ngài không tự nhốt mình trong cung điện nguy nga tráng lệ, nhưng Ngài sinh ra giữa dân nghèo cùng cực. Ngài ở giữa những cảnh đời tha phương cùng cực nhất của nhân loại là “sinh vô gia cư, chết vô địa táng”. Ngài ở giữa nhân trần để chia sẻ cảnh đời vốn dĩ vô thường và lắm nổi trôi. Ngài ở giữa chúng ta để trao ban tình yêu cho những người bất hạnh, ốm đau, bệnh tật, bị ngược đãi, bị bỏ rơi. Ngài còn dành một tình yêu đặc biệt cho những người tội lỗi là phường thu thuế và gái điếm. Hôm nay, Chúa vẫn tha thiết mời gọi chúng ta hãy để cho Chúa được tiếp tục hiện diện trong cuộc đời chúng ta. Hãy để cho Chúa làm chủ cuộc sống của mình bằng việc tuân hành thánh ý Chúa. Hãy noi gương Đức Mẹ, chúng ta hãy dọn cho Chúa một cung lòng để Chúa ngự trị. Hãy đón nhận Chúa. Hãy sống cho Chúa. Hãy phục vụ Chúa trong anh em.
Hôm nay, Chúa vẫn tha thiết mời gọi chúng ta hãy để cho Chúa được tiếp tục hiện diện trong cuộc đời chúng ta. Hãy để cho Chúa làm chủ cuộc sống của mình bằng việc tuân hành thánh ý Chúa. Như thế cách đón mừng Đại lễ Giáng Sinh tốt nhất vẫn là việc đón Chúa vào tâm hồn của mình. Chúa chỉ có thể đi vào một tâm hồn thực sự sãn sàng muốn đón tiếp Chúa, Chúa chỉ có thể đi vào những gia đình biết mở cửa và đợi chờ Ngài. Những gì là kiêu căng tự mãn thì không thích hợp với Chúa, những gì còn bận vướng làm cho tâm hồn chúng ta không thanh thản như giận hờn, thù oán, tội lỗi, dục vọng đam mê, chơi bời, lười biếng... nó chính là những vật cản trở khiến cho chúng ta không thật sự ước muốn chân thành và quảng đại đón Chúa, những điều ấy cần phải được gỡ bỏ để cuộc tiếp đón Chúa được thoải mái hơn và thân mật hơn.

Đối với các bạn trẻ thanh thiếu niên thái độ đón Chúa của chúng ta như thế nào, chúng ta chuẩn bị những gì? Thưa- Đừng đánh mất ý nghĩa ngày Con Thiên Chúa xuống thế làm người bởi những cuộc vui, cuộc ăn nhậu thâu đêm, để rồi đi đến thác loạn và những hậu quả nghiêm trọng khác nữa. Đừng vô tình biến ngày đại lễ của chúng ta thành ngày lễ hội hình thức bên ngoài; Đừng biến nó trở thành ngày của ông già noel. Để tránh những thái độ như thế. Các bạn cần quay về với tâm tình tôn giáo và bầu khí đạo đức của giáo xứ, của gia đình, bằng chuẩn bị riêng cho tâm hồn mình sự thanh sạch nhờ Bí tích Giải tội và niềm vui thâm sâu nhờ Bí Tích Thánh Thể, bằng việc sum họp gia đình. Khi có Chúa ở trong tâm hồn thì các bạn sẽ không cần đến niềm vui nào khác nữa, khi có một bầu khí gia đình ấm cúng, các bạn sẽ cảm nhận được niềm vui Giáng Sinh, và nếu tham dự các lễ hội trần gian các bạn sẽ là người đem Chúa vào các lễ hội ấy, sống và thực hành như thế là cách chuẩn bị tốt nhất để đón Chúa. 

******

Ước gì trong mùa giáng sinh năm nay, lời cầu chúc Emmanuel không chỉ là Thiên Chúa ở cùng chúng ta mà ở cùng anh chị em chúng ta. Xin Chúa Giê-su là Đấng Emmanuel luôn hiện diện sống động trong cuộc đời từng người chúng ta, xin Ngài ban tràn đầy niềm vui thánh ân trong ngày mừng Chúa Giáng Sinh. Amen

Thứ Sáu, 22 tháng 12, 2017

LỄ THEO NGÀY 23.12


Phải đặt tên cháu là Gio-an. (Lc 1. 60b)

Bài Tin mừng hôm nay cho thấy việc Gioan sinh ra được Thánh sử Luca mô tả thật là ngắn gọn, nhưng cho thấy sự can thiệp đặc biệt của Thiên Chúa nơi con trẻ này. Trước hết, việc cưu mang và hạ sinh Gioan trong dạ của một phụ nữ đã quá hiếm muộn là không thể được, nhưng Thiên Chúa đã dùng quyền năng thương xót của Ngài trước hoàn cảnh hoàn toàn bất lực của con người để đem lại niềm vui lớn lao cho con người; đồng thời qua trẻ này Thiên Chúa sẽ thực hiện lời hứa của Ngài bằng sự chuẩn bị, sẵn sàng cho Đấng Thiên Sai đến để cứu độ dân Người. Vì thế, Gioan sau khi sinh ra có những dấu hiệu hết sức lạ lùng và ngạc nhiên, đến nỗi láng giềng và người thân thích không ai hiểu nổi, nhất là việc đặt tên cho con trẻ là Gioan. Ông Gioan có một sứ mạng đặc biệt, là người đi trước dọn đường cho Chúa đến. Ông là ngôn sứ quan trọng nhất trong khoảng giao thời giữa Cựu Ước và Tân Ước, ông sẽ làm phép rửa và giới thiệu Đức Giêsu cho dân chúng. Cuộc sống chay tịnh nhiệm nhặt của Gioan là lời tiên báo về con người Đức Giêsu, Đấng sẽ đến mở ra một triều đại mới giúp cho nhân loại hiểu được rằng Nước Thiên Chúa không phải nơi đầy vẻ xa hoa tráng lệ nhưng là vương quốc của sự nghèo khó và yêu thương, là thời của hòa bình và công chính, của tha thứ và chữa lành. Qua trẻ Gioan, Thiên Chúa đã bước xuống với gia đình ông Dacaria, khôi phục và trả lại phẩm giá cho bà Êlisabét gần một đời người chịu nhiều điều tiếng của hủ tục Do Thái vì son sẻ. Thiên Chúa đã đến với nhân loại, đến với dân tộc Do Thái giúp họ thoát khỏi ách nô lệ của tội lỗi và sự chết. Tình thương Thiên Chúa biểu lộ cách trọn vẹn trong con người Đức Giêsu mà ông Gioan sắp giới thiệu. Và cho đến cuối đời, Gioan đã đổ máu mình làm chứng cho Sự Thật, làm chứng cho Chân Lý Thiên Chúa là tình yêu. Ông là nhân vật lớn cuối cùng của Cựu Ước và là nhân vật đầu tiên của thời Tân Ước. Ngay từ lúc tượng thai trong lòng mẹ, trẻ Gioan đã mang một dấu ấn khác thường. Cha mẹ của Gioan là ông Dacaria và bà Êlisabét đều son sẻ và đã qua thời sinh nở, thế nhưng Thiên Chúa đã làm nên những điều kỳ diệu vượt sức tưởng tượng của loài người. Khi Gioan chào đời, sự có mặt của con trẻ đã làm những người họ hàng hết sức kinh ngạc lẫn vui mừng.Theo luật Do Thái, 8 ngày sau khi sinh, cả gia đình họ hàng họp lại làm phép cắt bì và đặt tên cho con trẻ. Bà Êlisabét đã gọi tên con trẻ là Gioan, và ông Dacaria cũng đồng ý như thế theo sự linh hứng của Thiên Chúa. Gioan là một cái tên chưa từng có trong dòng họ của ông Dacaria nhưng là tên do Thiên Chúa mặc khải. Trong Kinh Thánh, danh xưng “Gioan” có nghĩa là Thiên Chúa biểu lộ tình thương.

Thời Tân Ước, ngoài sự sinh hạ của Chúa Giêsu, thì chỉ có Gioan là người duy nhất được Thiên Chúa sai tổng lãnh thiên thần Gabriel loan báo về cuộc sinh hạ và truyền lệnh cho người cha đặt tên gì cho con trẻ. Theo văn hoá Phương Đông, người nào đặt tên cho ai, thì có toàn quyền pháp lý trên vận mệnh của người được đặt tên. Lại nữa, việc đặt tên cùng đồng nghĩa trao ban một sứ mệnh, như trường hợp các sư phụ đặt tên mới cho đệ tử. Vì thế, việc Thiên Chúa sai thiên thần đến loan báo sự đầu thai và đặt tên cho Gioan, nói lên việc Gioan đã được thánh hiến và hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa ngay từ trong lòng mẹ, đồng thời việc đặt tên cũng là trao ban cho Gioan một sứ mệnh là sẽ là Tiền Hô cho Con Thiên Chúa nhập thể và nhập thế. Chiêm ngưỡng biến cố này, mọi Kitô hữu cũng ý thức hơn về sự tái sinh của mình trong ngày nhận bí tích Rửa Tội, chúng ta được sinh ra trong Giáo Hội, được phục hồi quyền làm con Thiên Chúa và nhận một tên mới theo tên vị thánh bổn mạng. Và cũng từ đó chúng ta phải sống xứng đáng với ơn thánh, cũng như mang trên mình sứ mạng như vị Tiên Hô của Chúa, dọn đường cho Chúa đến với những nơi chưa nhận biết Người. Như vậy, mỗi cuộc đời chúng ta là một kế hoạch của Thiên Chúa, đòi hỏi chúng ta phải bước đi trong niềm tin, dù cuộc đời không thiếu những lúc tưởng chừng như không còn gì để hy vọng, chúng ta được mời gọi tin tưởng vào Thiên Chúa, Đấng không bao giờ bỏ rơi những ai kêu cầu Người, dù chúng ta lắm khi không hiểu được cách thức can thiệp của Chúa, hay đã hơn một lần cảm thấy vô lý trước Lời Hứa.

Chúng ta cũng thấy là khi nghi ngờ Lời Thiên Chúa thì ông Dacaria bị câm, đến lúc ông thực hiện Lời Thiên Chúa hứa để đặt tên cho con trẻ là Gioan thì ông lại nói được để chúc tụng Thiên Chúa. Điều này cho thấy, bao lâu con người còn nghi ngờ Lời Thiên Chúa, là bấy lâu tâm hồn con người còn bị đóng băng và không thể ca tụng Thiên Chúa, cũng như không thể thi hành chức vụ “ngôn sứ” là loan báo Ơn Cứu Độ cho người khác. Tắt một lời, khi chúng ta không có một tâm hồn đầy Chúa, thì không thể ca tụng Chúa và loan báo Tin Mừng. Như vậy, Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta hãy đón nhận Lời Chúa và thi hành Lời Chúa muốn chúng ta làm gì cho Người (như ông Dacaria đã làm là đặt tên cho con theo lệnh Chúa). Để rồi cũng như ông Dacaria, chúng ta mở miệng ca tụng Chúa và nói về Ơn Cứu Độ dành cho muôn dân.

*****

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết sống xứng đáng với ơn thánh, cũng như mang trên mình sứ mạng như vị Tiên Hô của Chúa, dọn đường cho Chúa đến với những nơi chưa nhận biết Người. Amen

Thứ Năm, 21 tháng 12, 2017

LỄ THEO NGÀY 22.12


Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn! (Lc 1, 49)

Bài Tin Mừng hôm nay nằm trong bối cảnh của cuộc thăm viếng. Mẹ Maria khi gặp chị họ là bà Elizabeth,  ngay giờ phút đầu tiên mới gặp nhau, bà Elizabeth đã cất lời ca ngợi Mẹ là Người có phúc nhất trong giới phụ nữ; Mẹ Maria cũng đã hân hoan vui sướng ca ngợi và cảm tạ Thiên Chúa vì Mẹ đã cảm nghiệm sâu sắc tình thương Thiên Chúa dành cho Mẹ: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng Cứu độ tôi.”. Hẳn không ai trong tôi, bạn và anh chị đi vào giờ suy niệm hôm nay mà không biết đến bài ca này. Không chừng có người đang hát cùng Mẹ Maria nữa. Magnificat ! Bài ca mang cung bậc cảm xúc phong phú và tròn đầy này vẫn được cất lên mỗi chiều trong giờ kinh phụng vụ Hội Thánh. Bài ca đặc biệt được yêu thích không chỉ bởi người hiểu sâu biết rộng, mà cả nơi người đơn sơ, ít học, tầm thường, cùng khốn. Một trong những lý do giúp bài ca này được yêu mến hẳn vì đây là tiếng nói, là tâm tình, là xác tín của những người hèn mọn. Mẹ hát thay cho họ. Mẹ dâng lên Chúa, Mẹ ca khen Chúa, Mẹ tuyên xưng thay cho những người yếu về thể xác hay tinh thần, những người vất vả trong tâm hồn hay nơi cuộc sống, những mẹ góa con côi, những tù tội hay bần nông, ...
Thật vậy, ai là người dễ nhận ra sự hiện diện, tình yêu thương và tài chở che của Chúa trong mọi biến cố lớn nhỏ của đời mình, nếu không phải là những người cảm thấy sức mình hèn, trí mình mọn ? Ai là người hớn hở vui mừng, nếu nếu không phải là người nhận ra rằng chính Chúa đang từng bước giúp mình vượt qua những nỗi đau, những thiệt thòi, những mất mát trong đời ? Ai là người xác tín mạnh mẽ rằng Thiên Chúa giàu lòng thương xót cũng chính là vị thẩm phán công minh, nếu không phải là người đang cảm nhiệm mình bỗng nhiên được bù đắp những thiếu thốn, được bênh vực trước oan khiên, được bồi hoàn trước thiệt thòi và mất mát ấy ? – Còn tôi, bạn và anh chị, chúng ta từng trải nghiệm vì được ở trong số những người kể trên đây chăng ? Và nếu ai đó đã thực sự nhận ra Chúa đang ở với mình, đang hướng dẫn, bảo vệ, chở che, và tuôn đổ phúc lành của Ngài trên đời mình, liệu họ sẽ im lặng ? hay là cất cao lời Ngợi ca Lòng Thương Xót ? - Chắc chắn họ sẽ làm như Đức Mẹ hôm nay.

Có thể nói, Đức Maria đã cất lên bài ca của những người bị áp bức, mà trong đó Mẹ và bà Elisabeth diễn tả mối bận tâm của mình dành cho dân Israel. Đức Maria đã nhận vào trong con người của Mẹ một cảm thức và mối bận tâm của bà Anna sau khi bà này sinh hạ Samuel, và ca ngợi về tất cả những điều này vào trong một bài ca biết ơn. Thánh sử Luca giữ lấy cảm thức này cho chúng ta trong kinh Magnificat mà ngài đặt như là một lời dẫn cho việc công bố của Đức Giêsu về sứ mạng của Người là giải phóng người nghèo và những kẻ bị bỏ rơi (Lc 4, 18- 19). Khi hát lên lời này, Đức Maria như muốn tuyên bố, Thiên Chúa không đánh giá con người theo tiêu chuẩn trần thế. Những con người thành đạt, giàu sang và leo lên đỉnh cao quyền lực, có lẽ sẽ làm cho mọi người kính nể và sợ sệt, nhưng đối với Thiên Chúa thì không. Giàu sang và quyền lực trần thế chỉ là thứ chóng qua như “con người chóng qua như cỏ”. Thiên Chúa chú tâm đến người góa bụa, trẻ mồ côi, người hèn mọn, những con người không có chút quyền hành gì, những con người vô tích sự trước mắt người đời. Kẻ giàu sang quyền thế thường thoả mãn về mình; người nghèo hèn chỉ trông cậy vào Thiên Chúa. Kinh Magnificat là tuyên ngôn: Thiên Chúa là Thiên Chúa của người nghèo và người bị áp bức; phúc cho người nghèo vì có Thiên Chúa là Đấng luôn chăm sóc họ. Đức Maria là mẫu gương sự nghèo khó và lời kinh Magnificat mà Mẹ hát lên phản ánh việc Mẹ đứng về phía những người bị áp bức. Điều này làm cho lời kinh này mang một tính cách mạng vĩ đại: cần phải thay đổi vị trí xã hội để mọi người được bình đẳng trước mặt Thiên Chúa.

TÓM LẠI: Lời kinh Magnificat được thốt lên trong bối cảnh của cuộc thăm viếng bà chị họ Elisabeth, bao hàm hành trình truyền giáo đầu tiên của Mẹ Maria với đầy đủ tính năng của một cuộc truyền giáo thực thụ, khi Mẹ đem Chúa Giêsu đến cho người khác và trao ban Chúa Giêsu để những người lãnh nhận được tràn ngập niềm vui vì được cứu độ. Điều này cũng tựa như việc Phêrô cho anh què ở Cửa Đẹp Đền Thờ chính Chúa Giêsu và anh được chữa lành để rồi anh nhảy nhót tưng bừng ca ngợi Thiên Chúa. Biến cố thăm viếng làm nổi bật lên đặc trưng của người môn đệ là: Đức tin, đức ái và cảm thông -nghĩa là mỗi Ki-tô hữu đều mang trên mình niềm tin phó thác cho công trình cứu độ của Thiên Chúa, thực hiện đức ái Kitô bằng việc dấn thân phục vụ và trao ban niềm vui, đồng thời cảm thông và bênh vực cho những người nghèo hèn và những người bị áp bức trong xã hội.

 ********

Lạy Mẹ Maria, xin dạy và giúp mỗi người chúng con biết dâng lời ngợi khen, cảm tạ Thiên Chúa trong suốt cuộc đời, được thể hiện qua cuộc sống vui tươi, biết nhạy bén với những nhu cầu của tha nhân và sẵn sàng giúp đỡ họ bằng tình yêu của Thiên Chúa, để qua đó họ tin nhận có Thiên Chúa tình yêu trong cuộc đời chúng con và cả trong cuộc đời của họ nữa. Đặc biệt, xin Mẹ cầu bầu và hướng dẫn cho mọi người được đón nhận đức tin vào Thiên Chúa. Amen.

Thứ Tư, 20 tháng 12, 2017

LỄ THEO NGÀY 21.12

Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này? (Lc 1, 43)

Con Thiên Chúa, từ ngày truyền tin, lại còn là con Đức Maria. Hồng ân ấy, Đức Maria không giữ cho riêng mình, Người đã vội vã lên đường, đi thăm người bà con để chia sẻ cho nhau. Mở đầu bài Tin Mừng với từ “Hồi  ấy”, nghĩa là ngay sau biến cố Truyền Tin, ngay sau khi đón nhận Chúa Giêsu vào cung lòng, Đức Maria đã lên đường ngay. Mẹ vội vã lên đường như đây là một công việc gấp rút, cần phải thực hiện càng sớm, càng tốt. Đó là hình ảnh của một con người "đầy Chúa", sẵn sàng ra đi loan báo Tin Mừng, loan báo về Tình Yêu Thiên Chúa thực hiện trong Đức Kitô. Đúng thế, Mẹ đang cưu mang Đấng Cứu Tinh- một niềm vui lớn cho dân Israel đang trông chờ, nên Mẹ không chần chừ, không lưỡng lự mà đon đả lên đường đem Tin Mừng cho người chị họ của mình. Động lực thúc đẩy Mẹ không phải vì Mẹ tò mò xem Lời Thiên sứ nói về Êlisabét có đúng không? Cũng không phải mau mắn đến giúp bà chị, nhưng vì Mẹ tràn đầy niềm vui Tin Mừng, nên tức khắc cần chia sẻ ngay cho những người thân cận của Mẹ. Đây là một cách truyền giáo mà người Kitô hữu chúng ta cần học.

Sự xuất hiện của Mẹ sau tiếng chào đã làm cho bà Elisabeth được tràn đầy Thánh Thần và Gioan Tẩy Giả được cứu độ. Chúng ta hình dung ra ngay lúc này đây qua bài Tin Mừng, cảnh hai con người tràn ngập niềm vui: Niềm vui Mẹ đem Chúa đến cho nhà Giacaria, niềm vui của bà Eliazabeth phải kêu lên, niềm vui của Gioan trong bụng mẹ phải nhảy lên vui sướng, niềm vui của hai bà mẹ hạnh phúc vì đều đang được mang trong mình một mầm sống mới. Tuy nhiên, niềm vui chỉ thật sự viên mãn khi biết chia sẻ niềm vui, và khi chia sẻ thì cũng được nhận lại niềm vui để nên phong phú và trọn vẹn. Mẹ Maria đem niềm vui đến chia sẻ cho bà Elizabeth, thì cùng lúc mẹ đón nhận niềm vui vì Chúa đã thương cất đi nỗi nhục nhằn son sẻ của bà chị họ. Niềm vui càng nên trọn vẹn khi được cụ thể hóa bằng lời ca ngợi Chúa và phục vụ nhau. Mẹ Maria đã thốt lên bài ca Magnificat bất hủ và tận tình phục vụ bà chị họ Elizabeth trong thời kỳ thai nghén. Một tấm gương tuyệt diệu của “Bà Chúa” đối với con người. Quả thế, dù được diễm phúc hơn mọi người phụ nữ vì đã cưu mang Con Thiên Chúa, cưu mang Đấng Cứu Thế mà cả dân Israel và muôn dân trông đợi, nhưng Đức Maria đã không tự coi mình cao trọng trong phẩm vị “Hoàng Thái Hậu” mà hạ mình để phục vụ, mà người đầu tiên được diễm phúc Mẹ Thiên Chúa đến phục vụ là bà Elisabeth. Nếu Đức Giêsu là Chúa và là Thầy mà đã quì xuống rửa chân cho các môn đệ, thì trước đó chính Mẹ Người là Mẹ Thiên Chúa đã hạ mình phục vụ một thụ tạo, và với một công việc rất thấp hèn suốt một thời gian ba tháng theo lời kể của Thánh sử Luca (x. Lc 1, 56).

Ngoài ra, biến cố gặp gỡ giữa Maria và Elisabeth đã làm nổi bật lên tầm quan trọng của đức tin trong việc đón nhận, gặp gỡ và trao ban. Quả thế, sự gặp gỡ là khởi đầu cho những giao ước và nối kết các mối liên hệ trong cuộc sống. Muốn gặp gỡ đòi hỏi phải ra khỏi mình, ra khỏi chính nơi yên ổn của mình, ra khỏi những vướng bận ràng buộc mình để đến với tha nhân. Chính vì vậy, mà với khoảng cách giữa Nazareth và Ain Carem cả trăm cây số, nhưng vì tình yêu và muốn đem Chúa đến cho người chị họ, nên Mẹ Maria đã không quản ngại ra đi để gặp gỡ bà chị, dù khi đi phải chấp nhận nhiều từ bỏ đầy rủi ro. Nhưng theo Tin Mừng, để có được cuộc gặp gỡ này, đòi hỏi một sự tín thác tuyệt đối vào Thiên Chúa, từ đó mới dám ra đi, mới dám dấn thân không ngại rủi ro đường xa nguy hiểm. Tin rằng Chúa đã thực hiện cho mình và tin rằng Chúa cũng đã rất thương đối tượng mình gặp gỡ. Thật vậy, lúc nhận lời mời gọi của Thiên Chúa, Đức Maria cũng chưa biết Thiên Chúa sẽ đưa mình tới đâu, nhưng Đức Maria chắc chắn tin vào Thiên Chúa và chương trình của Người. Chính lòng tin sắt đá ấy đã làm cho Đức Maria xứng đáng được đón nhận Chúa Giêsu Kitô vào trong dạ mình, thông chia cho Người bản tính nhân loại để Người trở nên một phần tử loài người mới, và bắt đầu từ đó, một nhân loại mới đã được thai sinh. Chức vụ làm mẹ này là kết quả của lòng tin nơi Đức Maria vào Thiên Chúa. Đức Maria không những được tôn vinh về chức vụ làm Mẹ Đấng Cứu Thế về mặt thể xác, nhưng Mẹ còn cao trọng hơn mọi người về mặt đức tin. Đức Thánh Cha Phaolô VI đã nói: “Đức Maria là người môn đệ đầu tiên trọn hảo nhất của Đức Kitô và trọn hảo nhất về mặt đức tin”. Nếu Abraham là “tổ phụ những kẻ tin” (x. Rm 4, 12), thì Đức Maria là hiện thân sự hoàn hảo của đức tin. Abraham ra đi còn có một lời hứa “đất và dân”; Đức Maria đón nhận trách nhiệm trong một niềm tin phó thác mạng sống mình vào tay Thiên Chúa. Dù không có bất cứ một lời hứa nào, Đức Maria vẫn phó thác và đi hết con đường vâng phục của mình trên trần gian. Thiên Chúa còn sai sứ thần nắm bàn tay sát tế của Abraham để khỏi hạ gươm giết con một mình, còn Đức Maria không thấy bàn tay nào ngăn cản các lý hình giết chết Người Con yêu dấu.

*******

Lạy Chúa, như Mẹ Maria đã chia sẻ vào mầu nhiệm Chúa Giê-su Ki-tô trong tất cả chiều kích cuộc đời trần thế của Người, đặc biệt trong sự gặp gỡ và phục vụ. Xin cho chúng con trong cuộc lữ hành đức tin cũng biết noi gương Mẹ Maria, là sẵn sàng ra khỏi mình để đến gặp gỡ tha nhân, để phục vụ và trao ban Chúa cho họ. Amen.