Translate

Thứ Hai, 31 tháng 7, 2017

THỨ BA TUẦN 17 THƯỜNG NIÊN


Người đáp: Kẻ gieo hạt giống tốt là Con Người. Ruộng là thế gian. Hạt giống tốt, đó là con cái Nước Trời. Cỏ lùng là con cái Ác Thần.(Mt 13, 37-38)

Đồng ruộng nào mà không có cỏ, hoặc ít, hoặc nhiều: cỏ lớn, cỏ bé, cỏ lá dài, cỏ lá tròn, lá đơn, lá kép, rễ cọc, rễ chùm… thôi thì đủ loại, nhưng đáng ngại nhất vẫn là cỏ lùng. Bài Tin Mừng hôm nay là chuyện các môn đệ xin Chúa Giê-su giải thích ý nghĩa dụ ngôn “Giống tốt và cỏ lùng”. Một dụ ngôn chỉ ra nguyên nhân của sự thiện ác từ đâu và chứng minh một thực tế là thiện và ác cùng tồn tại song hành với nhau. Dụ ngôn này cho biết trong các công việc của Nước Thiên Chúa, vẫn có xen lẫn những công việc của ma quỷ, mà trong giai đoạn sống ở trần gian, người ta không thể nào triệt bỏ hết được, chỉ đến ngày tận thế sự phân định mới rõ ràng. Vì thế, dụ ngôn cỏ lùng có mục đích diễn tả lòng kiên nhẫn của Thiên Chúa, Ngài chấp nhận tốt xấu pha trộn, đợi đến ngày cuối cùng Chúa mới lấy quyền phân xử. Trong trần gian cũng như trong Giáo hội luôn có những người xấu sống bên cạnh những người tốt, cái thiện và cái ác lẫn lộn. Ánh sáng và bóng tối trong thế giới ta đang sống, thiện và ác trong lòng mọi người, đó là cánh đồng lúa mì mà trong đó cỏ lùng mọc lẫn lộn bên cạnh cây lúa tốt. Còn đối với con người, xấu tốt ở xen lẫn với nhau, vàng thau lẫn lộn, không phân biệt được tốt xấu, hoặc đôi khi đánh giá lầm mà coi người tốt ra người xấu, hoặc người xấu ra người tốt. Trong Hội thánh và nơi mỗi người có một sự pha trộn thánh thiện và tội lỗi, thiện và ác đó là điều không tránh được. Hội thánh là thánh thiện tự bản chất, nhưng Hội thánh cũng có những con người yếu đuối và tội lỗi, và chúng ta, mặc dầu đã nhận nhiều ân sủng qua phép Rửa tội cũng có khuynh hướng phạm tội. Mặt khác, dụ ngôn “cỏ lùng – lúa tốt” mà Đức Giê-su đưa ra trong trình thuật Tin mừng hôm nay nhắm đến một điều còn lớn hơn, đó là lòng từ bi, thương xót, kiên nhẫn, bao dung, quảng đại của Thiên Chúa. Chúng ta thường có khuynh hướng chung là muốn tiêu diệt sự dữ ngay tức khắc: “Sao Chúa không phạt cho nó méo miệng khi nó nói xấu bôi nhọ con trong khi con vô tội!” “cầu cho nó ra đường xe đụng bởi nó độc ác làm hại mọi người!”, hoặc “cái thứ xấu xa như ngữ ấy sống làm gì cho chật đất.”….Và dường như trong những tư tưởng, những mong ước xem ra rất là “hợp lý và tự nhiên” ấy lại tiềm ẩn một tư tưởng báo thù – “xin Chúa Trời báo oán!” Nhưng Thiên Chúa là “Đấng từ bi và nhân hậu, Người đại lượng và chan chứa tình thương. Người không xử với ta như ta đáng tội và không trả cho ta theo lối của ta.” (Tv.) Và tư tưởng của Thiên Chúa thì khác xa với tư tưởng con người (x). Vì không như những cánh đồng trần gian, cỏ muôn đời là cỏ mà lúa vạn kiếp vẫn là lúa, nơi cánh đồng tâm linh con người, cỏ vẫn có khả năng cải tạo thành lúa tốt (gương những vị thánh như Maria Ma-đa-lê-na, Phao-lô, Au-gus-ti-nô, Inhaxio…) mà lúa cũng có thể biến thành cỏ dại. Do đó mà Thiên Chúa vẫn luôn chờ đợi, và Người luôn mong chờ nơi cánh đồng của Người một mùa gặt bội thu.

TÓM LẠI: Thiên Chúa đã ban ân sủng cũng như Lời của Người cho con người. Tâm hồn con người như một cánh đồng bao la huyền nhiệm đón nhận ân sủng và hạt giống Lời Chúa. Hạt giống ấy có được phát triển phong nhiêu, sinh nhiều hoa thơm trái tốt hay không là tùy tình trạng của mảnh đất tâm hồn này. Mảnh đất tâm hồn con người có được cày xới, chăm chút bằng sự giáo dục đúng đắn của gia đình, của xã hội và của giáo hội, thì dù ma quỉ có gieo cỏ lùng là những gương xấu, những chủ trương, triết thuyết sai lầm lôi kéo…cũng không thể lấn át được sự phát triển của hạt giống tốt trong tâm hồn. Vì vậy, mỗi Ki-tô hữu phải được bồi dưỡng, trang bị cho mình những kiến thức thánh kinh, luân lý và giáo huấn của Giáo hội, nuôi dưỡng bằng các bí tích và đời sống cầu nguyện để có một đức tin mạnh mẽ, lấy Lời Chúa làm kim chỉ nam, làm lẽ sống để lấn át và tiêu diệt cỏ lùng, và cứ lo tìm kiếm Nước Trời thì sẽ không bao giờ lầm, vì đó là một bảo đảm cho những ai dám đặt tất cả niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô.

******

Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn biện phân được sự thiện ác cùng tồn tại ngay trong chính thân phận làm người của chúng con và ngay trong Hội Thánh Chúa, để chúng con cùng cộng tác với Chúa mà kiên nhẫn và giúp những tội nhân hoán cải trở về với Ngài. Amen.

Chủ Nhật, 30 tháng 7, 2017

THỨ HAI TUẦN 17 THƯỜNG NIÊN


Chúng ta hay nghĩ Đức Giê-su ngự trên ngai hay trên tòa; nhưng trong các trình thuật Tin Mừng, Ngài hiện diện thật là bình dị và thật là gần gũi giữa chúng ta. Và Đức Giê-su thích hiện diện ở giữa chúng ta như thế đó: ngay trong môi trường sống của chúng ta, ngay trong cuộc sống bình thường của chúng ta, ngay trong giáo xứ của chúng ta, ngay gia đình của chúng ta, ngay ở giữa những vấn đề cuộc sống của chúng ta, và thậm chí, ngay trong lòng của chúng ta, qua Lời của Ngài và bí tích Thánh Thể, được ban cho chúng ta hằng ngày. Ngoài ra, Đức Giê-su còn trở nên gần gũi với chúng ta trong lời giảng dạy nữa, bởi vì Ngài dùng dụ ngôn mà giảng dạy; và chúng ta nên biết rằng, nói về Thiên Chúa bằng dụ ngôn là cách thức giảng dạy đặc trưng nhất của Đức Giêsu, bởi vì theo các tác giả Tin Mừng: “Người không nói gì với họ mà không dùng dụ ngôn” (Mt 13, 34; Mc 4, 34). Và như chúng ta đều đã biết, những dụ ngôn Đức Giêsu kể luôn là một câu chuyện đến từ kinh nghiệm cuộc sống; chẳng hạn dụ ngôn muời cô mang đèn đi đón chàng rể, dụ ngôn những yến bạc, dụ ngôn chiên và dê, dụ ngôn người cha nhân hậu, dụ ngôn nắm men, dụ ngôn hạt cải, và nhất là dụ ngôn Hạt Giống và Người Gieo Giống. Dụ ngôn là những câu chuyện đến từ kinh nghiệm đời thường, nhưng khi được Đức Giê-su kể, lại nói cho chúng ta những điều kín ẩn: kín ẩn về Thiên Chúa, kín ẩn về con người, kín ẩn về mối tương quan giữa Thiên Chúa và con người và giữa con người với nhau, kín ẩn về chương trình cứu độ của Thiên Chúa, kín ẩn về Nước Trời, như thánh sử Mát-thêu tường thuật trong bài Tin Mừng là: Mở miệng ra, tôi sẽ kể dụ ngôn, công bố những điều được giữ kín từ tạo thiên lập địa. (Mt 13, 35). Hơn nữa, dụ ngôn còn có một đặc điểm tuyệt vời nữa là có nhiều nghĩa, giống như một bức tranh; và vì thế, dụ ngôn rất tôn trọng ngôi vị và tự do của người nghe, như chính Đức Giê-su hay kết thúc dụ ngôn bằng câu nói: “Ai có tai thì nghe”. Người nghe có thể tự do chú ý đến bất cứ chi tiết nào, hay tự do đặt mình vào bất cứ nhân vật nào trong dụ ngôn, và tự mình khám phá ra ý nghĩa tùy theo kinh nghiệm sống, vấn đề và tâm trạng hiện có của mình. Đức Giê-su thích dùng dụ ngôn là vì vậy, Ngài tôn trọng ngôi vị và tự do của chúng ta, dù chúng ta là ai và đang ở trong tình trạng nào. 

Hai dụ ngôn hạt cải và nắm men diễn tả Nước Trời trong bài Tin Mừng hôm nay là hai dụ ngôn rất nhỏ bé và rất tự nhiên (nghĩa là không có những yếu tố “lạ thường” mà các dụ ngôn thường có), nhỏ bé và tự nhiên như chính hình thức (rất ngắn) và nội dung của dụ ngôn (hạt cải và nắm men nhỏ bé khiêm tốn). Tuy nhiên, niềm hy vọng mà hai dụ ngôn này có thể khơi dậy nơi tâm hồn người nghe thì rất to lớn và rất siêu nhiên. Dụ ngôn hạt cải và nắm men trong Tin Mừng hôm nay đều nhấn mạnh đến sự bất tương xứng của thời kỳ đầu của Nước Trời và của thời kỳ kết thúc. Dụ ngôn hạt cải nói đến sự tăng trưởng của Nước Trời theo chiều rộng, còn dụ ngôn nắm men trong bột ám chỉ chiều sâu, tức là sự biến đổi bên trong. Cũng như cây cải nhỏ bé thường thấy ở miền giáp hồ Tibêria có thể cao tới ba thước, Nước Trời cũng bắt đầu hiện diện từ thời kỳ truyền giáo của Chúa Giêsu và của Giáo Hội tiên khởi trong sự khó nghèo và thiếu thốn. Và đó là giáo huấn nền tảng của dụ ngôn hạt cải và nắm men.

Điều mà hai dụ ngôn này muốn diễn tả, đang được thực hiện cho cộng đoàn chúng ta, cho từng người chúng ta mỗi ngày ngang qua việc đọc và cầu nguyện với Lời Chúa, ngang qua Thánh Lễ được cử hành và ngang qua ngày sống được nuôi dưỡng bằng Lời và Mình của chính Đức Ki-tô. Từng ngày và từng ngày, dù bất cứ điều gì đã xảy ra trong nội tâm của chúng ta, tất cả chúng ta, từng người và cả cộng đoàn, đã được Chúa gieo hạt giống và tất cả đã được Chúa vùi vào một nắm men. Hạt giống và nắm men thật nhỏ bé và mong manh, nhưng tất yếu sẽ trở nên to lớn và bền vững. Bởi vì đó là sức mạnh tất yếu của Lời Chúa.

******

Lạy Chúa! Con tạ ơn Chúa đã cho con ít nhiều tham dự vào sứ mạng gieo Lời và rao giảng Nước Trời. Xin hãy đặt vào lòng chúng con hạt nhỏ của Lời, của lòng tin-cậy-mến, để chúng con trở nên người mang Sức Mạnh Ẩn Giấu của Nước Chúa trong đời mình và cho tha nhân. Amen.

Thứ Bảy, 29 tháng 7, 2017

CHÚA NHẬT 17 THƯỜNG NIÊN, NĂM A


Bởi vậy, bất cứ kinh sư nào đã được học hỏi về Nước Trời, thì cũng giống như chủ nhà kia lấy ra từ trong kho tàng của mình cả cái mới lẫn cái cũ. (Mt 13, 52)

Nếu như Chúa nhật 16 vừa rồi, Giáo Hội chọn bài Tin Mừng nói về 3 dụ ngôn: cỏ lùng; hạt cải; men trong bột để sánh ví sự phát triển mạnh mẽ của Nước Trời, thì ở Chúa Nhật 17, tiếp tục đưa ra ba hình ảnh diễn tả về Nước Trời là dụ ngôn kho báu, ngọc quý và lưới cá: Nước Trời được ví như một người nông dân đi cày ruộng phát hiện ra một kho báu được chôn giấu trong thửa ruộng đang cày, hay Nước Trời được ví như một nhà buôn ngọc khi mua bán ngọc quý, đã phát hiện ra một viên ngọc đẹp rất có giá trị, nên sẵn sàng về nhà bán tất cả gia sản của mình để mua cho được thửa ruộng có kho báu, hay mua viên ngọc quý giá kia. Tiếp đến Nước Trời cũng được ví như công việc thả lưới bắt cá của một ngư dân: Sau khi bắt được một mẻ cá lớn đã ngồi trên bãi cát mà chọn lựa, rồi giữ lại cá tốt trong giỏ và loại bỏ cá xấu ra ngoài. Cũng vậy, đến ngày tận thế chỉ những người lành mới được vào Nước Trời là thiên đàng, còn kẻ dữ sẽ bị phạt trong hỏa ngục muôn đời. Nhiệm vụ của các môn đệ Đức Giê-su là phải tìm hiểu ý nghĩa của mầu nhiệm Nước Trời so sánh với Lề luật của Mô-sê để biết sử dụng cả những điều cũ điều mới.
Bài tin mừng hôm nay nhấn mạnh niềm vui của người đã tìm thấy kho tàng. Anh ta say mê đến độ sẵn sàng bán hết tất cả những gì mình có để sở hữu mảnh đất mà anh ta đã khám phá ra kho tàng ấy. Tất cả những điều đó cho chúng ta thấy rõ cái giá tuyệt vời mà anh ta gán cho kho tàng ấy: anh không còn có thể bỏ được nữa, anh ta quí chuộng nó hơn tất cả mọi sự. Thật vậy, Đức Giêsu Kitô là viên ngọc quý không những chỉ để cho con người ta kiếm tìm và chiêm ngưỡng vẻ đẹp mà thôi, nhưng còn phải nỗ lực chiếm đoạt cho bằng được để làm tài sản quý giá cho đời sống của mình. Viên ngọc quý Giêsu sẽ không thuộc về những ai nếu họ không thực sự nỗ lực lên đường tìm kiếm và “bán” tất cả những gì mình có để mà “mua”. Và người lái buôn đi tìm ngọc đẹp chính là những người có đức tin, khao khát chân lý và ước mong có hạnh phúc thật nơi Thiên Chúa, hiện thân nơi Đức Giêsu, vì chỉ có Đức Giêsu là con đường đích thực dẫn người ta đạt đến hạnh phúc đó mà thôi: Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống đời đời” (Ga 14,6). Tất nhiên rằng, trong công cuộc tìm kiếm viên ngọc quý Giêsu, không phải là chuyện dễ dàng như tìm kiếm một “báu vật” tầm thường nào đó ngay trong thế giới này. Do vậy, để đoạt được viên ngọc quý Giêsu, người tìm kiếm phải có tài, có đức, phải biết kiên trì, và trung thành với đường lối đi tìm kiếm của mình. Có như thế, mới có thể đạt được viên ngọc quý Giêsu làm tài sản có giá trị cho cuộc đời của mình. Tin mừng còn nhấn mạnh đến sự kiện là sự lựa chọn đó không chấp nhận điều đình. Những ai đã khám phá ra kho tàng đó đều sẵn sàng bỏ hoặc bán tất cả để sở hữu cho bằng được. Họ không muốn để mất cơ hội chỉ có một lần trong cuộc sống. Chúa Giêsu muốn chứng tỏ cho chúng ta thấy rằng việc vào Nước Trời cần phải có một quyết định dứt khoát, một sự chọn lựa nền tảng. Đó không phải là một sự mặc cả hay điều đình. Và sự chọn lựa ấy nhất định bao gồm việc từ bỏ một điều khác. Bấy giờ câu hỏi đặt ra cho chúng ta: Chúng có thực sự làm một sự lựa chọn của đức tin không?

Thực tế, “viên ngọc” quý Giêsu vẫn có đó, nhưng còn rất nhiều người chưa tìm thấy được. Tại sao vậy? Có lẽ tại vì có nhiều thứ “ngọc đẹp lấp lánh” trong môi trường sống của xã hội này khiến người ta “lóa mắt” và tìm kiếm chúng, nên không thể thấy viên ngọc Giêsu đang bị “chôn dấu” trong thửa ruộng hay ngoài vườn. Và cũng có nhiều người chưa tìm thấy được viên ngọc quý Giêsu cũng có lẽ chỉ vì lý do có người đã ôm trọn viên ngọc Giêsu cho riêng mình mà không phân phát cho người khác, không làm cho “Viên Ngọc” đó sáng lên để nhiều người tiếp nhận, tức là các kitô hữu (Giám mục, linh mục, tu sĩ, giáo dân...) đã không làm tốt vai trò hay sứ vụ của mình trong việc đem “viên ngọc Giêsu” đến cho muôn dân, nên có nhiều người không thể đón nhận.

*******
Lạy Chúa, xin Chúa ban cho chúng con ơn khôn ngoan để biết chọn “viên ngọc quý Giêsu” làm tài sản quý giá cho cuộc đời của mình và đồng thời “ôm” Viên Ngọc đó đến trao ban cho anh chị em của chúng con, để mọi người cũng được đón nhận niềm vui và hạnh phúc từ viên Ngọc Quý đó.

Thứ Sáu, 28 tháng 7, 2017

LỄ THÁNH MÁC-TA


Giáo hội mừng lễ thánh Mácta, như là một hình ảnh đại diện cho sự thánh thiện của gia đình Bê-ta-ni-a, trong đó có Mácta, Lazaro và Maria. Bài Tin Mừng hôm nay kể chuyện việc Chúa Giêsu vào nhà Mácta và hai chị em lo lắng phục vụ Người theo từng cách riêng của mình. Người ngồi nghe Chúa nói, người bận bịu chuyện cơm nước hầu Người. Câu chuyện được kể trong Tin Mừng hôm nay rằng, có thể Chúa không trách Mác a vì chỉ lo chuyện phục vụ, nhưng có lẽ Chúa đã trách yêu Mácta vì quá lo chuyện phục vụ và ôm đồm mọi thứ, bởi vì mọi người có phận vụ riêng của mình. Thật ra, câu chuyện Martha và Maria nói lên hai phận vụ của việc phụng sự Chúa, hai chiều kích của việc rao giảng Tin Mừng, hai linh đạo chính của đời tu (hoạt động và chiêm niệm).

Mácta chọn cách lo việc phục vụ, Maria chọn cách ngồi bên chân Chúa nghe Chúa nói. Cả hai việc đều tốt, nhưng khác nhau ở chỗ là Mácta đã quá lo lắng bận rộn với công việc, và Chúa Giêsu đã nhắc Mácta là quá lo lắng bối rối về nhiều chuyện, mà quên đi sự cần thiết là ở bên Chúa để lắng nghe Lời Chúa. Ngày hôm nay, không thiếu người trong chúng ta xem trọng “việc Chúa hơn là lắng nghe Chúa”, bon chen lo lắng việc đời và bỏ quên đời sống cầu nguyện và nghe Lời Chúa. … Nhiều vị lo lắng công trình xây cất cho giáo xứ mà bỏ bê cả đời sống kinh nguyện. Mong sao, giữa những bộn bề của một ngày sống, chúng ta vẫn ưu tiên những phút giây cho việc đọc và nghe Lời Chúa. Hình ảnh cô Maria ngồi nghe Chúa Giêsu hôm nay cho chúng ta một kiểu mẫu khi cầu nguyện, khi gặp gỡ Chúa. Cầu nguyện không chỉ là nói nhiều cho Chúa nghe, mà còn là thinh lặng để nghe Chúa nói với mình. Khi chúng ta đọc Thánh Kinh, nghe đọc và suy niệm Lời Chúa, là lúc Chúa đang nói với ta. Khi ta ngồi thinh lặng trước Thánh Thể là ta đang lắng nghe nhịp đập yêu thương nơi Trái Tim Người. Và trong mọi nơi mọi lúc chúng ta cầu nguyện hay thinh lặng suy gẫm, là lúc chúng ta đang nép mình bên Chúa.

Thật ra, không nên dùng đoạn Tin Mừng này để so sánh về bậc thang giá trị của việc phục vụ và cầu nguyện, hay để cho rằng ơn gọi chiêm niệm hơn ơn gọi hoạt động. Bởi nếu ai cũng như Maria lo ngồi nghe Chúa nói thì lấy ai lo bữa ăn cho Chúa Giêsu và các môn đệ, hay nếu ai cũng như Mácta lo chuyện bếp núc thì lấy ai tiếp chuyện với Người. Nhưng cần phải hiểu cách nói của Chúa Giêsu là “tốt nhất” chứ không phải “tốt hơn”, nghĩa là không phải cái này tốt hơn cái kia, mà là mọi người có cách phục vụ Chúa bằng bổn phận riêng của mình được coi là tốt nhất trong ơn gọi mình và đấng bậc mình. Điều đáng trách chính là muốn ôm đồm mọi việc cho mình, lấn vào cả công việc của người khác rồi ganh tỵ với người khác.

 TÓM LẠI, trong việc giữ đạo và sống đạo, chúng ta phải biết làm sao để trung hòa được việc lo toan cho cuộc sống và việc lắng nghe Lời Chúa. Nếu không, lời Chúa được gieo nơi tâm hồn chúng ta sẽ như hạt giống rơi vào bụi gai sẽ bị bóp nghẹt, nghĩa là Lời Chúa sẽ bị chết yểu bởi những lo toan lo lắng sự đời.

****** 

Lạy Chúa, xin cho chúng con ý thức nơi cuộc sống dương gian này, chúng con có hai phận vụ của việc phụng sự Chúa, và cũng là hai chiều kích của việc rao giảng Tin Mừng, đó là vừa sống kết hiệp với Chúa vừa dấn thân phục vụ anh chị em. Amen.

Thứ Năm, 27 tháng 7, 2017

THỨ SÁU TUẦN 16 THƯỜNG NIÊN


Vậy anh em hãy nghe dụ ngôn người gieo giống. (Mt 13, 18)

Bài Tin Mừng hôm nay là lời giải thích cho các môn đệ hiểu cặn kẽ về dụ ngôn “Người đi gieo giống”, trước là để các môn đệ hiểu ý nghĩa của dụ ngôn, sau là để chuẩn bị cho các ngài sau này sẽ phải đối diện với một thực tế trong công cuộc truyền giáo, mà trong đó cần đến sự hào phóng của người gieo giống và kiên nhẫn với nhiều thái độ đón nhận. Việc giải thích dụ ngôn nhấn mạnh đến tính chất khác biệt của các thửa đất và phẩm chất đón nhận hạt giống. Tin vào hiệu quả của Lời Chúa không được làm quên đi trách nhiệm của những kẻ nghe lời. Kết quả cụ thể của việc gieo hạt tuỳ thuộc vào thái độ đón nhận:

- Hễ ai nghe lời rao giảng Nước Trời mà không hiểu, thì quỷ dữ đến cướp đi điều đã gieo trong lòng người ấy. Đó là thái độ thờ ơ trước Lời Chúa, và vì không quan tâm đến Lời Chúa thì quỷ thần sẽ chiếm giữ linh hồn họ.

- Kẻ được gieo trên nơi sỏi đá, đó là kẻ nghe Lời và liền vui vẻ đón nhận. Nhưng nó không đâm rễ mà là kẻ nhất thời khi gặp gian nan hay bị ngược đãi vì Lời, nó vấp ngã ngay... Là hạng người nhiệt tình theo Đức Kitô khi mọi sự dễ dàng xuôi chảy, và bỏ Người khi khó khăn, thử thách, đau khổ, ngược đãi ập đến.

- Còn kẻ được gieo vào bụi gai, đó là kẻ nghe Lời, nhưng nỗi lo lắng sự đời và bả vinh hoa phú quý bóp nghẹt khiến Lời không sinh hoa kết quả gì... Đây là "người tín hữu không đạt đến sự chín muồi của đức tin"... Bởi vì người ấy bị tinh thần của thế gian giữ lại, bị bối cảnh vô tín xung quanh bao vây. Chúng ta cảm thấy rõ ràng đối với Chúa Giêsu đức tin là một công việc phát triển lâu dài, và phải chiến đấu chống lại mọi thứ trở ngại, chống lại những ảnh hưởng của thế gian chiếm quá nhiều chỗ trong đời sống.

- Cuối cùng kẻ được gieo trên đất tốt, đó là kẻ nghe Lời và hiểu thì tất nhiên sinh hoa kết quả và làm ra kẻ được sáu chục, kẻ được ba chục… Sinh hoa kết quả là điều mong ước mà Chúa Giêsu muốn chúng ta thực hiện một đời sống tràn đầy, phong phú. Đối với Chúa Giêsu, điều kiện chủ yếu để đời sống chúng ta sinh hoa kết quả là Lời Thiên Chúa được lắng nghe và hiểu lâu dài.

 TÓM LẠI: Thiên Chúa mời gọi chúng ta hãy lắng nghe Chúa Giê-su chỉ dạy qua lời Thánh Kinh hằng ngày. Hãy tin tưởng và đón nhận Chúa như mảnh đất tốt đón nhận hạt giống tốt. Chúa Giêsu cũng mời gọi chúng ta tự vấn chính mình: Có bao nhiêu hạt giống “Lời Chúa” đã được gieo vào lòng tôi? Số phận của những hạt giống ấy giờ này ra sao? Hạt giống ấy đang nằm ở đâu trong cuộc đời của tôi ? Tôi đã đón nhận những hạt giống ấy như thế nào? Tôi đã làm gì để hạt giống ấy được phát triển và lớn lên.

******* 

Lạy Chúa, xin làm cho tâm hồn mọi người chúng con nên thửa đất tốt, biết mở rộng lòng mình để đón nhận Lời Chúa và làm cho Lời Chúa được lớn lên trong chúng con, đồng thời làm cho Lời Chúa được lan tỏa đến mọi người nhờ đời sống đạo và những gì chúng con có thể làm được vì vinh quang Chúa. Amen.

Thứ Tư, 26 tháng 7, 2017

THỨ NĂM TUẦN 16 THƯỜNG NIÊN


Mắt anh em thật có phúc vì được thấy, tai anh em thật có phúc vì được nghe  (Mt 13, 16)

Đọc xong bài huấn dụ của Chúa Giêsu hôm nay, có lẽ tôi – bạn và anh chị cảm thấy được an ủi phần nào và đủ tự tin để đặt mình vào nhóm những người được Chúa Giêsu gọi là anh em, ngang tầm với các môn đệ. Chúng ta dám cảm nghĩ thế, vì xét lại, ít ra thái độ của ta đối với Chúa cũng không đến nỗi nào. Lại nữa, cũng đôi khi ta đủ can đảm hành động để đáp lại tiếng Chúa, để làm cho Lời được sinh hoa kết trái. Tuy vậy, vẫn có không ít băn khoăn rằng sao lại có sự khác biệt giữa các môn đệ và đám đông dân chúng ? Chúa Giêsu thiên vị chăng ? Hay là Ngài đã thực sự bó tay trước sự cứng đầu cứng cổ của đám đông ? – Nếu có dịp đọc trực tiếp bản văn Tin Mừng theo Matthêu, độc giả sẽ nhận ra rằng trong chương 12, các đối thủ của Chúa Giêsu ngày càng gia tăng chỉ trích, chống phá sứ vụ của Ngài. Đồng thời, Chúa Giêsu cũng đòi buộc đám đông theo Ngài phải có thái độ dứt khoát: theo, hay chối từ Ngài và sứ điệp Tin Mừng. Thực tế ấy gọi mời tôi – bạn và anh chị mở rộng tâm trí hơn để Thánh Thần giúp ta hiểu được và nhận ra sứ điệp Tin Mừng Chúa Giêsu dành cho chúng ta hôm nay, Ngài hằng muốn và luôn rộng rãi thi ân để mọi người đón nhận Tin Mừng và được cứu độ. Vấn đề là con người có mở lòng đón nhận hay không. Vấn đề là con người có để cho Lời Chúa sinh hoa kết trái trong cuộc sống mình hay không. Vấn đề là họ có thực sự khao khát được Chúa điều khiển và hướng dẫn đời mình hay không.

Thật vậy, Chúa Giêsu coi việc những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành trở nên như ngang hàng với Mẹ và anh em Người (x. Mt 12,49-50). Năng suy niệm Lời Chúa cho đến khi cảm nhận như Chúa động đậy trong tâm mình, thì khi đó thực sự Chúa đã ở trong ta và đang lớn lên. Khi có Chúa trong mình, thì mới có thể sống và hành động như Chúa Giêsu và luôn làm đẹp ý Cha trên trời. Chúa Giêsu còn khẳng định: Ai đã có thì được cho thêm, và sẽ có dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy mất” (Mt 13,12). Nghĩa là hạt giống Lời Chúa được chăm sóc thì sẽ sinh hoa trái gấp bội, nhưng bị bỏ xó thì hạt giống đó sẽ bị hư đi. Mỗi người đều được Thiên Chúa ban ân sủng, đều có con tim, đều có lương tri hướng thiện, thế nhưng nếu ai đánh mất niềm tin vào Thiên Chúa, hướng lương tâm vào những gì trái nghịch với Thiên Chúa, thì những ân sủng Người ban cho và ngay cái mình đang có là lương tâm thánh thiện thuở ban đầu cũng sẽ bị lấy đi. Nước Trời chỉ dành cho những người đơn sơ, chân thành và yêu mến, nên đã có thì lại được đầy dư; còn kẻ không có nghĩa là không tin như Pharisêu, thì những cái đang có tức lòng tin truyền thống của họ cũng sẽ bị lấy đi, và mọi việc họ làm trở nên vô ích. 

Cũng thế, không ít người Công Giáo chúng ta ngày hôm nay, đôi khi xem việc tham dự thánh lễ Chúa Nhật là một gánh nặng vì sợ tội, để rồi đến nhà thờ lúc đọc Lời Chúa và nghe giảng thì ngủ gật, hoặc đi trễ chờ hết phần Phụng Vụ Lời Chúa rồi mới vào. Lại nữa, nhiều bạn trẻ lại dành nhiều thời giờ cho việc tìm kiếm để xem, để đọc và để nghe những ấn phẩm không tốt cho tâm hồn hơn là tìm xem, đọc và nghe Lời Chúa, dù Lời Chúa ngày hôm nay có đầy đủ trên mọi phương tiện truyền thông và các ấn phẩm. Với thái độ như thế, xin hãy nghe Lời Chúa Giêsu hôm nay đang nói với chính chúng ta: “Các ngươi có lắng tai nghe cũng chẳng hiểu, có trố mắt nhìn cũng chẳng thấy; vì lòng dân này đã ra chai đá: chúng đã bịt tai nhắm mắt, kẻo mắt chúng thấy, tai chúng nghe, và lòng hiểu được mà hoán cải, và rồi Ta sẽ chữa chúng cho lành (Mt 13,14-15).

 *******

Lạy Chúa, xin cho chúng con được vào số những người mà Ngài cho là có phúc, tức là những người thấy, nghe và hiểu được Lời Chúa cũng như nhận ra ý Chúa trong mọi biến cố cuộc sống, để Lời Chúa được lớn lên trong tâm hồn chúng con và đơm bông kết trái là các công phúc việc lành, hầu đem nhiều linh hồn trở về với Chúa. Amen.

Thứ Ba, 25 tháng 7, 2017

LỄ THÁNH GIOAKIM VÀ ANNA – SONG THÂN CỦA ĐỨC TRINH NỮ MARIA


 “Mắt anh em thật có phúc vì được thấy, tai anh em thật có phúc, vì được nghe” (Mt 13, 16)

Ca dao Việt Nam có câu: 
“Con người có cố có ông
Như cây có cội như sông có nguồn”.

Trong tinh thần ấy, hôm nay, phụng vụ Giáo Hội mừng lễ hai thánh Gioakim và Anna là thân phụ mẫu của Đức Maria và là ông bà ngoại của Đức Giêsu - Ngôi Hai Thiên Chúa làm người. Hai ngài, tuy âm thầm, nhưng lại là mắt xích không thể thiếu trong lịch sử cứu độ và góp phần làm cho dòng chảy ân sủng cứu độ của Thiên Chúa tuôn đổ trên loài người. Hai ngài đã sống cuộc đời thánh thiện và trung kiên trong niềm tin vào Thiên Chúa. Mừng lễ 2 thánh Gioakim và Anna cũng là dịp để mọi Kitô hữu -nhất là Giới Cao Niên- tìm hiểu về cuộc đời cũng như nhân đức của hai ngài mà noi gương bắt chước. Bài Tin Mừng vễ lễ song thân của Đức Mẹ chỉ có hai câu, nhưng bao hàm một ý nghĩa đặc biệt về các đấng thánh thiện này. Thánh Gioakim và Anna đã đạt được cái phúc cao quý là lắng nghe lời Chúa và làm cho lời Chúa được phát sinh. Thật vậy, chính hoa lòng của các ngài (khi sinh hạ Đức Maria) đã minh chứng điều đó.

“Mắt anh em thật có phúc vì được thấy, tai anh em thật có phúc, vì được nghe” (Mt 13, 16): Đó chính là cái phúc mà Chúa Giêsu nhiều lần lặp lại cho thấy tầm quan trọng của việc lắng nghe và thực hành Lời Chúa. Cái phúc được nghe và được thấy trước hết phải kể đến các môn đệ của Chúa Giêsu, các ngài là những “người bé mọn” và đơn sơ đón nhận, tin và đi theo Chúa Giêsu, các ngài có phúc hơn các ngôn sứ và những người công chính thời Cựu Ước đã không có được vinh dự được nghe và được sống với Đấng chính là Lời Thiên Chúa. Kế đến, cái phúc này dành cho những ai thấy, nghe và hiểu được Lời Chúa cũng như nhận ra ý Chúa trong mọi biến cố cuộc sống. Chúng ta ngày hôm nay có vinh dự được đọc, được nghe Lời Chúa hằng ngày trong Thánh Kinh và được hiểu qua lời giảng dạy của các đấng bậc trong Giáo Hội mà Chúa chọn để hướng dẫn chúng ta.

 Mối phúc “lắng nghe và thực hành Lời Chúa” thật cao cả và quan trọng, thậm chí Chúa Giêsu coi việc những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành trở nên như ngang hàng với Mẹ và anh em Người (x. Mt 12,49-50). Năng suy niệm Lời Chúa cho đến khi cảm nhận như Chúa động đậy trong tâm mình, thì khi đó thực sự Chúa đã ở trong ta và đang lớn lên. Khi có Chúa trong mình, thì mới có thể sống và hành động như Chúa Giêsu và luôn làm đẹp ý Cha trên trời.

*******

Lạy Chúa, xin cho chúng con được vào số những người mà Ngài cho là có phúc, tức là những người thấy, nghe và hiểu được Lời Chúa cũng như nhận ra ý Chúa trong mọi biến cố cuộc sống, để Lời Chúa được lớn lên trong tâm hồn chúng con và đơm bông kết trái là các công phúc việc lành, hầu đem nhiều linh hồn trở về với Chúa. Amen.

Thứ Hai, 24 tháng 7, 2017

LỄ THÁNH GIA-CÔ-BÊ TÔNG ĐỒ


Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người (Mt 20, 28)

Hằng năm cứ đến ngày lễ kính thánh Gia-cô-bê tông đồ, thì Giáo Hội lại cho chúng ta nghe bài Tin Mừng kể câu chuyện chẳng mấy tốt đẹp của anh em con nhà ông Giê-bê-đê xúi mẹ “đi đêm” với Chúa Giêsu để được quyền cao chức trọng. Mặc dầu hai ông đã đi theo Chúa được một thời gian, nhưng họ vẫn chưa hiểu hết được tinh thần của Chúa, lối sống của Chúa, sứ mạng cứu độ của Chúa và tư cách của người môn đệ đích thực của Chúa cần phải có là những gì. Ngay cả các môn đệ khác khi nghe biết sự tính toán của hai ông Giacôbê và Gioan, họ cũng đã tỏ ra bực tức, ghen tị với hai ông. Các môn đệ khác tỏ ra tức tối, điều này có nghĩa là các ông có cùng một tham vọng. Lòng ham muốn lây lan, sinh sôi nẩy nở từ thủa ban đầu của sự sống con người (x. St 3) ; và chỉ có cây Thập Giá mới chữa lành được thôi. Thật vậy, từ ngày theo Chúa Giêsu, các môn đệ luôn mang trong mình tư tưởng quyền lực, mong đến ngày Thầy Giêsu lên ngôi để các ông được chia sẻ tước này chức nọ, các ông tranh luận ai sẽ được Thầy Giêsu cho làm quan to nhất trong Nước Trời. 

Trình thuật Tin Mừng kể lại chỉ trong vài dòng chữ, nhưng nói lên biết bao điều sâu kín. Chúng ta hãy nhìn ra lòng ham muốn đã tác hại như thế nào trong tương quan với Chúa và với nhau. Nhưng trước hết, chúng ta có thể so sánh hai ý muốn, hai cung cách và hai con đường: con đường của hai môn đệ và của mười ông còn lại một bên, và bên kia là con đường của Đức Giêsu. Thật vậy, Người gọi các ông lại và nói: Anh em biết: thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Giữa anh em thì không được như vậy: Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em. Và ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em. i. t 20, 25-27). Ngài nêu ra một cách thức thi hành quyền bính giữa các môn đệ hoàn toàn ngược hẳn với cách thức bình thường. Nếu để ý, chúng ta sẽ nhận ra rằng lời của Ngài rất triệt để: “ai muốn làm lớn…” ; “ai muốn làm đầu…”. Ngài không nói: “ai được đặt làm lớn; ai được đặt làm đầu”. Nhưng Đức Giêsu nói đến ý muốn, và ý muốn này đang có nơi tất cả các môn đệ và cũng đang có nơi tất cả chúng ta. Đức Giêsu không nêu ra một nguyên tắc suông, nhưng Ngài luôn luôn nói điều Ngài là, tương tự như những lời Ngài nói trong Bài Giảng Trên núi: Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người. (Mt20, 28). Và điều Đức Giê-su ở đây muốn nói tới chính là lẽ sống của Ngài; phục vụ đối với Ngài không phải là một công trình phải cố thực hiện, nhưng phục vụ là lý do hiện hữu của Ngài. Vì thế, phục vụ và hiến dâng cũng phải là lẽ sống của chúng ta, theo gương của thánh Gia-cô-bê Tông Đồ mà chúng ta mừng kính hôm nay. Phục vụ và hiến dâng cũng phải là lẽ sống của chúng ta, bởi vì chính chúng ta đã được Chúa phục vụ trước và Ngài vẫn phục vụ chúng ta hằng ngày trong cuộc sống và trong Thánh Lễ. Hơn nữa, trong đời sống phục vụ, chính Chúa thúc đẩy chúng ta phục vụ, Ngài phục vụ với chúng ta và Ngài phục vụ trong chúng ta, như chúng ta vẫn tuyên xưng hằng ngày: “Chính nhờ Đức Ki-tô, trong Đức Ki-tô và với Đức Ki-tô”; và như lời thánh Phao-lô xác tín: “Tôi sống, nhưng không còn là tôi sống, nhưng Đức Ki-tô sống trong tôi” (Gl 2, 20).

Có lẽ chúng ta không có “giấc mơ quyền bính” như các Tông Đồ khi xưa, nhưng chắc chắn chúng ta có những gắn bó và quyến luyến đi ngược với con đường Thập Giá của Đức Ki-tô. Vì thế, chúng ta được mời gọi luôn luôn soi mình vào Đức Giê-su chịu đóng đinh, cá nhân cũng như cộng đoàn, và để được Người biến đổi.

******

Lạy Chúa, xin cho mọi người chúng con biết đến với mọi người bằng tinh thần khiêm nhu và hăng say phục vụ vô vị lợi, để trong mọi sự Chúa được vinh danh. Amen.

Thứ Bảy, 22 tháng 7, 2017

THỨ HAI TUẦN 16 THƯỜNG NIÊN

Trong cuộc phán xét, nữ hoàng Phương Nam sẽ đứng lên cùng với thế hệ này, (Mt 12, 42a)

Trong mọi thời đại, con người vốn có tính hiếu kỳ, vẫn luôn ưa thích những điều mới lạ. Trình thuật Tin Mừng hôm nay kể lại cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu với một số kinh sư và biệt phái. Sau khi giảng về các mầu nhiệm Nước Trời, Chúa Giêsu còn làm nhiều phép lạ, chữa bệnh cho một người bị bại tay (Mt 12, 9-14), chữa một người bị quỷ ám vừa mù lại vừa câm (Mt 12, 22). Dân chúng thấy vậy thì ngạc nhiên sửng sốt và tin theo, nhưng trong đó có một số kinh sư và biệt phái lại tỏ vẻ cứng lòng nên họ đến yêu cầu Người cho một dấu lạ để làm bằng chứng. Nhưng, câu trả lời của Chúa Giêsu vẫn là, đối với “thế hệ gian ác và ngoại tình”, sẽ chỉ có một dấu lạ duy nhất, dấu lạ Giôna. Đó là dấu lạ của hạt lúa phải thối đi, chết đi để có thể trổ sinh hoa trái. Vì thế, thay vì những hoạt động, những trình diễn “ngoạn mục” để thoả mãn tính hiếu kỳ, xin cho mỗi người chúng ta biết sống “dấu lạ Giona” là hoàn thành những cái “bình thường”, thậm chí “tầm thường” nhỏ nhoi, nhưng bằng một cách “phi thường”. Khi đưa ra câu chuyện về ông Giôna, Chúa Giêsu quở trách thái độ cứng tin của những luật sĩ và biệt phái. Xem ra dân thành Ninivê còn có phúc hơn vì họ khiêm tốn  nhận ra dấu chỉ của tình thương Thiên Chúa. Hình ảnh Giôna là một dấu lạ sống động về lòng thương xót của Thiên Chúa, Người không bao giờ đánh phạt nhưng giáo huấn sửa dạy để cho ta ăn năn sám hối và được sống.

Đức Giêsu chính là dấu lạ diễn tả trọn vẹn mạc khải và tình yêu của Thiên Chúa. Ngài đã đến thế gian và trở nên bằng chứng hùng hồn nhất về Nước Thiên Chúa. Hình ảnh dân thành Ninivê cũng diễn tả ơn cứu độ phổ quát của Thiên Chúa dành cho tất cả mọi người. Đức Giêsu làm những phép lạ không phải để chiều theo tính hiếu kỳ và thói cứng lòng của con người trần gian nhưng để minh chứng sự hiện diện của Nước Thiên Chúa, báo hiệu một thời đại mới đang đến. Ngày ấy, con người không còn phải đau khổ, không còn chết chóc nhưng được sống dồi dào trong Thiên Chúa. Khi chứng kiến phép lạ, đôi khi chúng ta tỏ thái độ thờ ơ coi thường. Có khi chúng ta muốn Chúa thực hiện phép lạ theo ý riêng hạn hẹp của ta mà không vâng theo ý Chúa. Thật vậy, mỗi ngày Thiên Chúa đều ban những dấu lạ để ta nhận biết tình thương của Người. Dấu lạ ấy thể hiện qua cuộc sáng tạo kỳ diệu, qua thiên nhiên vũ trụ vạn vật, qua sự yêu thương chăm sóc của cha mẹ nơi gia đình, qua các bí tích và những ân ban riêng của mỗi người. Một nghịch lý đáng buồn là trong khi dân ngoại lãnh nhận được ơn cứu độ của Thiên Chúa còn dân riêng của Chúa thì không, bởi lẽ chúng ta hay có thái độ tự mãn không chịu lắng nghe lời dạy bảo của Chúa. Hình ảnh nữ hoàng Phương Nam từ vùng đến xa xôi đã đến nghe lời khôn ngoan của vua Salômôn cũng nói lên điều đó. Lời dạy bảo của Chúa còn cao trọng hơn cả Salômôn, thế mà loài người đã không để tâm lắng nghe. Trong thời đại hôm nay, Chúa vẫn không ngừng tỏ cho nhân loại những dấu lạ nhãn tiền. Dấu lạ ấy thể hiện qua những ân ban nơi Giáo Hội, qua sức sống mới nơi Chúa Thánh Thần khiến Giáo Hội lướt thắng được những cơn phong ba bão táp. Ở nhiều nơi Giáo Hội còn bị bách hại, nhiều người chưa được nghe Tin Mừng, thế nhưng Giáo Hội vẫn âm thầm chịu mục nát để khơi lên niềm hy vọng một mùa lúa trĩu hạt.

*****

Lạy Chúa, mỗi ngày chúng con vẫn được nghe Lời Chúa qua mọi phương tiện từ các trang tin công giáo đến cuốn Thánh Kinh trong gia đình, đặc biệt được nghe Lời Chúa và được nghe lời rao giảng trong các Thánh Lễ, nhưng có lẽ chúng con chưa thực sự để cho Lời Chúa thấm nhập và biến đổi chúng con. Xin cho chúng con biết tận dụng mọi phương thế có được để tiếp xúc với Lời Chúa hằng ngày, hầu được Lời Chúa biến đổi nên xứng đáng là một Kitô hữu thánh thiện. Amen.

CHÚA NHẬT 16 THƯỜNG NIÊN, NĂM A

Trong hành trình rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu thường dùng những dụ ngôn, những câu chuyện hay xảy ra trong cuộc sống của người Do thái để trình bày cho họ dễ hiểu về những điều Ngài muốn đề cập tới. Bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã dùng ba dụ ngôn để nói về Nước Trời: dụ ngôn Cỏ Lùng; dụ ngôn Hạt Cải;dụ ngôn Men Trong Bột; Những dụ ngôn Chúa Giêsu sử dụng để giảng dạy ở đây rất thực tế, rất đơn giản và giúp cho người nghe dễ hiểu, dễ nhớ và có khi cũng dễ liên tưởng đến những gì người ta cần tìm hiểu. Một trong ba dụ ngôn Chúa Giêsu dùng trong bài Tin Mừng này để nói về Nước Trời là dụ ngôn “Hạt cải”. Từ những hạt cải nhỏ bé nhưng khi gieo xuống đất đã mọc lên thành cây to lớn, chim trời đến trú ẩn và làm tổ dưới bóng, để nói lên sức mạnh nhiệm mầu của Nước Thiên Chúa.  Chúa Giêsu đã dùng dụ ngôn hạt cải để nói về Nước Trời, có lẽ Người đã không chủ ý ví hạt cải như Nước Thiên Chúa, nhưng Người ví Nước Thiên Chúa sẽ lớn mạnh như sự phát triển của hạt cải. Từ một hạt cải nhỏ xíu nhưng khi gieo xuống đất, nó phát triển mạnh mẽ thành một cây to lớn, thành một nơi trú ẩn vững chắc và là nơi làm tổ an toàn cho chim trời. Đó cũng chính là sứ điệp của Chúa Kitô, là công cuộc cứu chuộc của Ngài, và trở thành sức sống, sự cứu rỗi cho mọi người.

Ngoài ra, dụ ngôn cỏ lùng còn cho biết trong các công việc của Nước Thiên Chúa, vẫn có xen lẫn những công việc của ma quỷ, mà trong giai đoạn sống ở trần gian, nguời ta không thể nào triệt bỏ hết được, chỉ đến ngày tận thế sự phân định mới rõ ràng. Vì thế, dụ ngôn cỏ lùng có mục đích diễn tả lòng kiên nhẫn của Thiên Chúa, Ngài chấp nhận tốt xấu pha trộn, đợi đến ngày cuối cùng Chúa mới lấy quyền phân xử. Trong trần gian cũng như trong Giáo hội luôn có những người xấu  sống bên cạnh những người tốt, cái thiện và cái ác lẫn lộn. Ánh sáng và bóng tối trong thế giới ta đang sống, thiện và ác trong lòng mọi người, đó là cánh đồng lúa mì mà trong đó cỏ lùng mọc lẫn lộn bên cạnh cây lúa tốt. Còn đối với con người, xấu tốt ở xen lẫn với nhau, vàng thau lẫn lộn, không phân biệt được tốt xấu, hoặc đôi khi đánh giá lầm mà coi người tốt ra người xấu, hoặc người xấu ra người tốt. Thiên Chúa cho kẻ lành người dữ sống chung với nhau, cũng như cho cỏ lùng và lúa cùng mọc lên, đến ngày tận thế Thiên Chúa mới phân xử, mới tách biệt chiên ra khỏi dê, người lành khỏi kẻ dữ. Trong khi chờ đợi ngày phân xử, chúng ta được mời gọi yêu thương mọi người, nhất là tạo điều kiện cho những kẻ tội lỗi biết sám hối trở về đường lành, còn việc xét xử thì dành cho Thiên Chúa. Trong Hội thánh và nơi mỗi người có một sự pha trộn thánh thiện và tội lỗi, thiện và ác  đó là điều không tránh được. Hội thánh là thánh thiện tự bản chất, nhưng Hội thánh cũng có những con người yếu đuối và tội lỗi, và chúng ta,  mặc dầu đã nhận nhiều ân sủng qua phép Rửa tội cũng có khuynh hướng phạm tội. Như thế, qua dụ ngôn này, chúng ta đừng có ảo tưởng là có thể có một Hội thánh hoàn hảo ở trên trần gian này, trong đó chỉ toàn những người thánh thiện. Trái lại, kẻ lành người dữ sống chung với nhau. Thiên Chúa kiên nhẫn chờ đợi cho kẻ dữ biết ăn năn sám hối để được tha thứ.

TÓM LẠI: Nước Trời được ví như Hội Thánh do Chúa Kitô thiết lập, là một sự tăng trưởng không ngừng và trở thành bóng mát cho mọi tâm hồn đến trú ẩn. Hội Thánh đó hiện diện mọi nơi trên thế giới để biến đổi thế giới và làm dậy men Tin Mừng khắp thế giới. Nhưng Hội Thánh đó tuy có biết bao người tốt lành thì vẫn tồn tại những cá nhân tội lỗi núp bóng Hội Thánh. Đó là một sự thanh luyện trường kỳ làm cho Hội Thánh ngày càng hoàn thiện hơn cho đến ngày được viên mãn trong Chúa Giêsu quang lâm.

******

Lạy Chúa, xin cho chúng con ý thức về sứ vụ của mình là làm cho Nước Chúa ngày càng được lớn lên và thấm nhập được vào mọi nơi trên dương gian này. Xin cũng cho chúng con biện phân được sự thiện ác cùng tồn tại ngay trong chính thân phận làm người của chúng con và ngay trong Hội Thánh Chúa, để chúng con cùng cộng tác với Chúa mà kiên nhẫn và giúp những tội nhân hoán cải trở về với Ngài. Amen.

Thứ Sáu, 21 tháng 7, 2017

LỄ THÁNH NỮ MARIA MA-ĐA-LÊ-NA (MÁC-ĐA-LA)

Bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi báo cho các môn đệ: “Tôi đã thấy Chúa’ và bà kể lại những điều Người đã nói với bà. (Ga 20,18)

Có thể nói, hai giác quan giữ vai trò quan trọng trong việc tiếp nhận thông tin là thị giác và thính giác (mắt và tai). Mắt và tai tiếp nhận rồi truyền vào tri thức và trái tim để biện phân và đặc biệt là giúp hồi tưởng về ký ức. Hai sự tiếp nhận này có phần không giống nhau giữa hai phái nam và nữ, vì như người ta thường nói: “Mắt con trai, tai con gái”. Đàn ông thường yêu bằng cái nhìn về bạn đời, nhưng phụ nữ lại thích nghe những lời nói yêu thương hơn…Lần lượt các tường thuật về biến cố Phục Sinh, các Tin Mừng cũng làm lộ rõ hai khả năng tiếp nhận và cảm nhận về Đấng Phục Sinh dựa theo hai giác quan là thính giác và thị giác. Cụ thể là mắt các ông môn đệ nhận ra Đấng Phục Sinh khi thấy Người bẻ bánh và dâng lời tạ ơn; còn chị em thì nghe Thầy gọi tên thật thân thương là nhận ra ngay và ôm lấy chân Thầy.

Trong ngày mừng lễ thánh nữ Maria Mácđala hôm nay, Giáo Hội cho đọc bài Tin Mừng kể chuyện Maria Mácđala, có lẽ vì quá đau đớn vì Thầy đã chết và khóc quá nhiều nên mắt hoen mờ, nên đã không nhận ra Đấng Phục Sinh, thậm chí còn tưởng là người làm vườn. Tuy nhiên, với lời gọi thân thương: “Maria!!!” Cô đã không thể lầm được nữa, cô nhận ra Thầy ngay và ôm quàng lấy chân Thầy rồi thốt lên lời thân thương mà cô từng gọi Thầy biết bao lần trước đây: “Thầy!!!”. Từ việc nghe đã tác động lên ký ức giúp hồi tưởng lại, Maria Mácđala đã cảm nhận được tiếng nói của Thầy những lần ngồi dưới chân Chúa để lắng nghe, và được nghe Chúa gọi tên nhiều lần trong những tháng ngày theo Chúa. Giờ đây, dù lúc đau thương không còn đủ tỉnh táo, mắt thể lý bị hoen mờ vì khóc quá nhiều, nhưng tiếng nói đầy yêu thương của Thầy thì Maria Mácđala không thể lầm vào đâu được. Vậy bà là ai ? Bà là người phụ nữ được Đức Giêsu trừ khỏi bảy quỷ (Lc 8, 1-3). Điều này làm cho chúng ta hiểu tại sao bà gắn bó với Đức Giêsu đến như vậy ; bà gắn bó với Thầy của mình trong những lúc thử thách nhất, bi đát nhất và đen tối nhất ; bà gắn bó với Thầy khi Thầy chẳng còn là gì hơn là một thân xác nát tan. Đặc biệt, bà là cầu nối giữa Đức Ki-tô chết và phục sinh với các môn đệ. Thật vậy, bà đi ra mộ; rồi bà chạy về báo cho Phêrô và Gioan (Ga 20, 2); bà lại chạy ra cùng với hai ông (Ga 20, 11); hai ông trở về nhà; còn các ông khác thì một số sợ hãi ẩn mình, một số khác chán nản bỏ cuộc; chỉ có một mình Bà Maria Mác-đa-la đứng ở ngoài, gần bên mộ, mà khóc. Và sau khi được Đức Ki-tô cho nhận biết, bà được trao sứ mạng trở về loan báo Tin Mừng, không phải cho muôn dân ngay tức thì, nhưng trước hết cho chính các anh em của Ngài, nghĩa là cho các tông đồ và các môn đệ, nghĩa là cho các đấng các bậc! Vì thế, Truyền Thống Giáo Hội tặng cho thánh nữ danh hiệu Tông Đồ của các Tông Đồ. Sứ mạng này vẫn còn được Đức Kitô phục sinh trao cho các phụ nữ hôm nay, trong đó một cách rất đặc biệt cho các nữ tu!

Như vậy, chủ ý của việc tường thuật biến cố Phục Sinh trong Thánh Lễ hôm nay, các tác giả Tin Mừng đã cho chúng ta nhiều cái nhìn để củng cố đức tin qua nhiều cách tiếp thu và cảm nhận của cả hai phái nam và nữ. Đấng Phục Sinh đã dùng chính cách tiếp thu giới hạn của con người mà cho họ được biết Người, rồi từ đó họ đi rao giảng - làm chứng về những gì mắt thấy tai nghe và lòng cảm nhận. Tóm lại, nghe và thấy đều thuộc dấu hiệu khả giác của bí tích. Bí tích có mô thể và chất thể -lời đọc và cử chỉ- cả hai chuyển tải Đấng Hiện Diện trong bí tích được trao ban cho thụ nhân. Hiệu quả tròn đầy của bí tích phụ thuộc nhiều ở lòng yêu mến. Hôm nay Maria Mácđala là một bằng chứng cho sự yêu mến đó, và cô đã được gặp chính Đấng Phục Sinh là đối tượng mà lòng cô khao khát và yêu mến.

****** 

Lạy Chúa, có lẽ không ít người trong chúng con chưa thực sự gặp được Đấng Phục Sinh nên tâm hồn chúng con chưa được đổi mới, bởi vì chúng con chưa đủ khao khát và lòng mến của chúng con dành cho Chúa chưa thật mặn nồng. Xin Chúa ban cho chúng con một con tim hết lòng khao khát và yêu mến Chúa hơn. Amen.

Thứ Năm, 20 tháng 7, 2017

THỨ SÁU TUẦN 15 THƯỜNG NIÊN


Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế, ắt các ông đã chẳng lên án kẻ vô tội.  (Mt 12, 7)

Mở đầu bài Tin Mừng chỉ vỏn vẹn trong một câu mà thánh sử đã giới thiệu về: thời điểm “ngày sabát”, về các nhân vật “Chúa Giêsu và các môn đệ”, về địa thế “một cánh đồng lúa”sự kiện “đói, bứt lúa ăn”. Cùng một vấn đề mà Chúa Giêsu và người Pharisiêu có những quan điểm đối nghịch. Người Pharisiêu nói với Chúa Giêsu “ các môn đệ của ông đã làm điều không được phép”, nghĩa là: các ông ấy đã vi phạm luật; phần ông là thầy của họ, ông đã không dạy đồ đệ của mình giữ luật cho thật tốt. Họ kể cho Chúa Giêsu nghe lỗi của các môn đệ nhưng đồng thời muốn “dằn mặt” ông thầy về việc tuân giữ luật lệ tổ tiên. Vào lúc này, Chúa Giêsu mới mở tâm trí cho họ hiểu ý nghĩa những điều đã viết trong Sách Thánh, sách mà họ đọc hàng ngày, sách mà họ đeo nơi tua áo, mang vác trên người “các ông chưa đọc trong sách sao? Ông Đavít đã làm gì khi ông và thuộc hạ đói bụng?”. Chúa Giêsu đã dẫn chứng một trường hợp cụ thể, rất gần với hiện trạng đói bụng của các môn đệ. Người nói : “Đavít vào nhà Thiên Chúa và cùng thuộc hạ ăn bánh tiến, thứ bánh chỉ dành riêng cho tư tế mà thôi”. Thật thế, do lòng nhân từ của Thiên Chúa, Ngài không thể chịu được nỗi khốn cùng của kẻ Ngài tuyển chọn. Họ ăn bánh tiến, họ đã bứt lúa, chỉ vì... họ đói. Ở đây, Chúa Giêsu thể hiện gương mặt Thiên Chúa nhân từ, Người muốn trở nên giống anh em mình trong mọi sự, để cảm nghiệm sự khốn cùng của kẻ mà Người cứu vớt. Vì thế, lời nói và dẫn chứng của Người cũng là cách phô diễn lòng nhân từ của Thiên Chúa, mà đối tượng Chúa ưu đãi luôn là người nghèo. Như thế, tình thương Chúa lan tràn và bao trùm mọi người, không phân biệt, không loại trừ và ơn cứu độ tuôn đổ dồi dào trên khắp mặt đất. Thật vậy, khi ban bố lề luật, Thiên Chúa muốn sự yêu mến và tự nguyện, nhưng dần già, được giải thích quá tỉ mỉ đến cả những chi tiết nhỏ nhặt, để rồi, các tiến sĩ - kinh sư - biệt phái thì sinh ra vụ luật và dùng luật làm thứ bình phong che chắn và làm lợi cho họ, còn dân chúng thì cảm thấy nặng nề, để rồi thay vì yêu mến và tự nguyện, họ chỉ giữ vì buộc phải giữ và luật trở thành gánh nặng đè trên vai họ. Bài Tin Mừng hôm nay cũng cho thấy việc Chúa Giêsu vạch trần sự giả hình của họ, ngày Sa-bát mọi người đến nghe Lời Chúa thì họ đến với ý đồ xấu nhằm để hại người. Luật đối với họ sẵn sàng ném đá chết một người lượm củi nấu ăn, không dám đi đường cấm dù cấp bách liên quan đến sự sống cần cấp cứu. Họ coi việc giữ những điều lặt vặt hơn là mạng sống của một con người.

ÁP DỤNG LỜI CHÚA VÀO CUỘC SỐNG NGƯỜI KITÔ HỮU :

Chúng ta cố gắng tuân giữ lề luật, nhưng cần tránh việc giữ luật vụ hình thức, giữ tỉ mỉ bên ngoài. Chẳng hạn : Ăn chay thì cố gắng nhịn ăn đến nửa đêm thì ăn bù lại; vào nhà thờ thì cúi mình hết sức sâu; đọc kinh thì rất lớn tiếng để cho mọi người biết tôi đọc kinh, nhưng làm những điều ấy chẳng có tâm tình yêu mến.

Luật được lập nên để giúp và hướng dẫn con người sống tốt hơn. Chúa Giêsu không bãi bỏ lề luật nhưng Ngài kiện toàn, nghĩa là giúp con người sống đúng tinh thần của luật, đó là hướng dẫn con người sống tốt hơn, sống theo luật với tấm lòng yêu thương. Rất nhiều người trong chúng ta giữ đạo rất tốt, giữ luật nghiêm ngặt, nhưng chúng ta dễ mắc sai lầm không khác gì những người biệt phái xưa : khinh dễ và phê bình những anh chị em sống đạo khô khan, nguội lạnh, vì thấy họ chưa tốt như chúng ta.

TÓM LẠI: sống đạo tốt là tuân giữ luật Chúa, luật Hội Thánh, nhưng phải xuất phát từ bên trong, tâm tình yêu mến Chúa nhiều hơn. Sống đạo còn thể hiện qua đời sống yêu thương nhau, phục vụ nhau. Cần tránh thái độ khinh chê, phê phán người khác, nhưng hãy tôn trọng và giúp đỡ lẫn nhau, sống tốt với nhau.

********
Lạy Chúa, mọi điều luật chỉ có giá trị cứu độ khi được tuân giữ với lòng yêu mến Chúa và tha nhân, xin cho chúng con luôn biết đến với Chúa với tâm tình cảm mến tri ân và đến với anh chị em với tấm lòng yêu thương. Đó mới là tinh thần của điều răn mới mà Chúa muốn nơi mọi người chúng con. Amen.

Thứ Tư, 19 tháng 7, 2017

THỨ NĂM TUẦN 15 THƯỜNG NIÊN


Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng.(Mt 11, 28)

Thường tình khi gặp gian nan thử thách buồn phiền, con người hay tìm giải sầu cách tự nhiên trong men rượu, cà phê, thuốc lá, hay tệ hơn nữa là trong xì ke ma túy, nhưng cũng có một cách thanh tao hơn để con người giải sầu là tìm đến bạn hữu chân tình để tâm sự cho vơi đi những nỗi buồn phiền. Bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu giới thiệu cho mọi người Kitô chúng ta một phương thế siêu nhiên để vượt qua những thử thách, buồn phiền, để được an bình tươi vui trong tâm hồn, đó là đến với Chúa: “Hãy đến cùng Ta, Ta sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng”. (Mt 11, 28b, đến với Chúa để ta học lấy cách sống của Ngài; đến với Chúa để ta sống như Ngài giảng dạy; đến với Chúa để ta đón nhận tình thương của Chúa: vì Chúa là nguồn an ủi, vì Chúa là nguồn tình yêu. Đó là một lời kêu gọi, một lời nhắn nhủ, một lời khích lệ đầy an ủi và phấn khởi Chúa Giêsu nói với tất cả và từng người chúng ta. Thật vậy, ở đời này có nhiều gánh nặng: gánh nặng bản thân, gánh nặng gia đình, gánh nặng xã hội, gánh nặng của bệnh tật, thất bại, mất mát, hiểu lầm của tình người và tình đời. Đã gọi là gánh nặng thì phải vất vả gánh vác: vất vả với cuộc mưu sinh, vất vả đêm ngày, phải đổ mồ hôi sôi nước mắt đổi lấy miếng ăn, thế mà có khi vẫn không đủ sống; vất vả sớm tối với bầy con, vất vả khi chúng còn nhỏ bé, vất vả khi chúng đã khôn lớn, nhất là khi chúng hư hỏng, quậy phá. Ngoài ra, “gánh nặng” còn được hiểu là những đau khổ của đời người. Đời người sống giỏi lắm là trăm năm, nhưng thử hỏi có ai là không đau khổ chăng? Ai cũng có những đau khổ riêng mình: người trước người sau, người ít người nhiều, người tinh thần người thể xác, người đi tu hay sống đời gia đình… không ai dám nói đời mình không có đau khổ. Cuộc đời trần gian là thế. Còn ách và gánh của Chúa muốn ta mang vác, đó chính là giáo huấn của Ngài, mà giáo huấn của Ngài là giáo huấn được đặt trên nền tảng của hai chữ yêu thương. Bởi đó ai học với Ngài và sống theo luật yêu thương của Ngài thì sẽ cảm thấy êm ái và nhẹ nhàng. Lòng yêu thương này Ngài mời gọi chúng ta cùng chia sẻ với Ngài. Do đó,  những lúc vất vả, khó khăn, đau khổ càng nhiều và càng nặng, chúng ta càng phải đến với Chúa mau hơn và nhiều hơn. Hãy đến với Chúa để cảm nhận được sự nâng đỡ và bổ sức của Chúa. Vậy khi Chúa Giêsu nói đến: “Ách của Chúa êm ái, gánh của Chúa nhẹ nhàng” thì điều đó không có nghĩa là gánh nặng dễ mang, nhưng phải hiểu thế này: khi gánh nặng được đặt trên vai chúng ta trong tình yêu, được mang trong tình yêu, và vì tình yêu thì gánh nặng sẽ trở nên nhẹ nhàng, rất nhẹ nhàng.

Như vậy, sứ điệp Lời Chúa hôm nay giúp ta một lần nữa, cảm nhận tự đáy lòng mình tình yêu thương vô bờ và sâu nặng của Thiên Chúa, qua Con Một Người. Chúa Giêsu đến trần gian không phải để phô trương, cũng không ăn thua đủ với những kinh sư biệt phái thời Ngài. Ngài đến bằng tình yêu và đi trên con đường khiêm hạ. Tình yêu giúp Ngài luôn hướng trọn trái tim cho người nghèo, cho những người phận nhỏ. Sự khiêm hạ cho Ngài sức mạnh giúp những mảnh đời khốn khổ vươn cao, vươn xa trong Sự Khôn Ngoan đích thực, để đạt đến Hạnh Phúc Vĩnh Cửu.

******
Lạy Chúa! Xin cho chúng con tin tưởng bám vào Chúa, đến với Chúa để học với Chúa và mang ách của Chúa, vì chúng con muốn được Chúa cho nghỉ ngơi bồi dưỡng, muốn sống cuộc sống nhẹ nhàng trong Luật yêu thương của Chúa. Cũng xin cho chúng con một khi đã nếm cảm được hạnh phúc trong Chúa, chúng con cũng biết cùng Chúa hướng lòng về những anh chị em khác đang đớn đau nơi thể xác, khốn khổ trong tâm hồn và bế tắc trên đường tìm Hạnh Phúc Thật, để tất cả được vui sống trong Chúa. Amen.

Thứ Ba, 18 tháng 7, 2017

THỨ TƯ TUẦN 15 THƯỜNG NIÊN


Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. (Mt 11,25)

Mọi Kitô hữu đều có quyền tự hào vì được nhận biết Thiên Chúa và được làm con của Người cách trọn vẹn ngay từ lúc lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội. Chúng ta không chỉ dừng lại ở niềm vui được giải thoát tội nguyên tổ, mà vui mừng hơn là vì được làm con Thiên Chúa trong lòng Giáo Hội Công Giáo. Hơn thế nữa, được biết Thiên Chúa và nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai thật không dễ dàng, bởi vì việc nhận biết Thiên Chúa và tin vào Chúa Giêsu không phải do trí hiểu hay thực nghiệm khoa học, mà là một ân ban của Thiên Chúa, như Chúa Giêsu đã nói: “Không ai thấy Thiên Chúa bao giờ nếu Chúa Con không mặc khải cho, và cũng không ai đến được với Chúa Con nếu Chúa Cha không lôi kéo họ”.

Hôm nay Chúa Giêsu vui mừng tạ ơn Chúa Cha, vì Chúa Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết mầu nhiệm Nước Trời, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Những người mà Chúa Cha và Đức Giêsu muốn mặc khải Nước Thiên Chúa cho, đó là những người bé mọn. Chúa Giêsu so sánh giữa những người khôn ngoan thông thái với kẻ bé mọn để dạy mọi người cần có thái độ của trẻ thơ: tin tưởng, khiêm nhường, ham học hỏi, để Người chuyển thông cho họ những kiến thức về Thiên Chúa. Bởi vì, thái độ kiêu hãnh và nghi ngờ sẽ ngăn cản người ta nhận ra những gì Thiên Chúa muốn mặc khải cho. Thật vậy, được biết Thiên Chúa và nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai thật không dễ dàng, bởi vì việc nhận biết Thiên Chúa và tin vào Chúa Giêsu không phải do trí hiểu hay thực nghiệm khoa học, mà là một ân ban của Thiên Chúa, như Chúa Giêsu đã nói: Không ai thấy Thiên Chúa bao giờ nếu Chúa Con không mặc khải cho, và cũng không ai đến được với Chúa Con nếu Chúa Cha không lôi kéo họ”. Hơn thế nữa, để hiểu Mầu Nhiệm Nước Trời, con người cần có thái độ khiêm nhường: trông cậy hoàn toàn vào Thiên Chúa chứ không phải ỷ vào sức mình, vì đức tin ở một cấp độ cao hơn lý trí, không lệ thuộc vào lý trí, nhưng lý trí có thể làm sáng tỏ đức tin. 

TÓM LẠI: Thay vì giản lược một Thiên Chúa khôn ngoan uy quyền vào lý trí hạn hẹp; con người phải ra sức cầu xin để Thiên Chúa ban cho hiểu được phần nào sự khôn ngoan vô cùng của Thiên Chúa. Chứ không phải biết được chút gì thì đã kiêu ngạo, nhân danh khoa học để bác bỏ sự hiện hữu của Thiên Chúa, hoặc không hiểu được một vấn đề thì lại cho là vô lý mà không nhận ra cái giới hạn của mình. Hơn thế nữa, Đức Giêsu đã là “người bé mọn”, vì thế Ngài là khuôn mẫu để chúng ta trở nên bé mọn; hay đúng hơn, chúng ta được mời gọi mặc lấy, mang lấy tâm tình trong Thánh Tâm của Ngài, Tin Mừng của Ngài, và chính bản thân Ngài để trở nên bé mọn với Cha, với nhau và với người khác.

******

Lạy Chúa, xin dạy chúng con biết khiêm tốn nhận ra những giới hạn yếu đuối của mình, mà năng đến với Thánh Thể mỗi ngày, để tâm hồn chúng con được bổ dưỡng sức thần thiêng mà vượt thắng mọi khó khăn trên đường lữ thứ trần gian. Amen.

Thứ Hai, 17 tháng 7, 2017

THỨ BA TUẦN 15 THƯỜNG NIÊN


Ta nói cho các ngươi hay: đến ngày phán xét, đất Xơ-đôm còn được xử khoan hồng hơn các ngươi. (Mt 11, 24)

Thiên Chúa không kết án ai lầm lẫn và thiếu hiểu biết không do lỗi của họ, nhưng Thiên Chúa sẽ xét xử những ai cố tình làm ngơ trước lời mời gọi hoán cải và kết án những kẻ cứng lòng tin vào Lời Chúa. Đó là lý do mà hôm nay trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu lên án đích danh một số thành thị về sự cứng lòng và lối sống xa hoa của cả cư dân ở đó. Chúa Giêsu cũng lên án dân thành Caphanaum sống phóng túng xa hoa và kiêu ngạo về sự giàu có của mình, và không mở lòng đón nhận Tin Mừng. Chúa Giêsu cũng cảnh cáo thái độ sống vô ơn của ba thành phố Khoradin, Bếtxaiđa và Caphacnaum, họ sẽ bị trừng trị một cách đích đáng. Cả ba thành phố này là những điểm truyền giáo mà Chúa Giêsu hằng lui tới giảng dạy. Tại đó, Người đã làm nhiều phép lạ để minh chứng cho lòng thương xót của Thiên Chúa và kêu gọi mọi người ăn năn sám hối. Thế nhưng ở đó có ít người tin theo Chúa, phần lớn họ tỏ thái độ cứng tin. Chúa Giêsu đã khẳng định, nếu các phép lạ làm tại Tia và Xiđôn, thì dân chúng đã mặc áo vải thô, rắc tro lên đầu tỏ lòng sám hối. Vì thế trong ngày phán xét, đất Xơđôm sẽ được xử khoan hồng hơn. Điều đó cho thấy Thiên Chúa đặc biệt yêu thích những ai có lòng biết ơn và sống khiêm nhường.Những ai tưởng mình sẽ được nâng lên đến tận trời thì họ lại bị hạ bệ nhục nhã. Bi kịch của ba thành phố Khoradin, Bếtxaiđa và Caphacnaum cũng là bi kịch trong lịch sử Cứu Độ. Những người tưởng mình được chọn lại là kẻ bị loại ra, trái lại những ai khiêm tốn nhìn nhận tội lỗi của mình sẽ được Thiên Chúa ban thêm nhiều ân sủng. Thiên Chúa luôn ban cho chúng ta ân sủng phong phú dồi dào như những cơn mưa mùa hạ tưới mát ruộng đồng. Thế nhưng, chúng ta không biết trân trọng đón nhận và sinh hoa kết trái thiêng liêng, chúng ta đã làm lãng phí những ân huệ của Thiên Chúa bằng thái độ sống vô ơn và chai lỳ trong tội, chúng ta đã lãng phí thời gian và tiền bạc vào những thú vui trần gian, chúng ta ích kỷ lo cho riêng mình mà không chịu chia sẻ cho tha nhân. Chính Chúa Giêsu đã làm gương cho chúng ta về thái độ sống chân thật với chính mình, với mọi người và với Thiên Chúa. Một khi chúng ta biết đón nhận và tin tưởng vào Thiên Chúa, Người sẽ ban thêm cho chúng ta những đấu đã dằn đã lắc. Người sẽ quảng đại ban nhiều hơn những gì chúng ta cầu xin và mong ước.

Thật vậy, chính sự xa hoa phóng túng và kiêu ngạo làm cho chúng ta thờ ơ trước lời kêu gọi của Chúa và Giáo Hội qua những người có trách nhiệm giảng dạy. Giàu có và kiêu ngạo lấn át cả việc mở lòng ra đón nhận Lời Chúa. Giàu có thì đam mê của cải, lo bận rộn làm giàu không còn giờ dành cho Chúa… Người ta nhầm tưởng rằng, có thể lấy tiền bạc của cải để mua Nước Trời, như khi dùng một số tiền nào đó để dâng cúng vào những việc xây dựng thánh đường hay là làm từ thiện, để rồi tự phụ kiêu ngạo và sống bê tha phóng túng. Người ta cũng coi sự giàu sang như là một bảo đảm hạnh phúc và coi việc kinh nguyện sớm hôm là của các bà già hay của những người nghèo mới cần đến Chúa để xin xỏ… Họ không biết rằng, linh hồn họ đang “nhào xuống âm phủ” vì sự ỷ lại vào của cải chóng qua.

*******

Lạy Chúa, xin cho chúng con biết yêu mến Lời Chúa, năng đọc và suy gẫm, và sống Lời Người, để ngày phán xét, chúng con được Chúa xét xử khoan dung và thâu nhận chúng con vào nước vĩnh cửu của Người. Amen.